CÓ THỂ
KHẲNG ĐỊNH TUỒNG LÀ MỘT MẢNG QUAN TRỌNG TRONG VĂN HỌC NAM HÀ
THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN (TK 17-18)
Dẫn nhập:
“Văn học Nam Hà” là cuốn sách của GS Nguyễn Văn Sâm xuất bản ở Sài G̣n năm 1971, viết về nền văn học Nam Hà thời các chúa Nguyễn (trải qua hai thế kỉ 17-18). Nhân trao đổi ư kiến với GS Sâm về cuốn sách này chúng tôi có đưa ra ư kiến cho rằng tuồng là thể loại nghệ thuật đă phát triển khá hoàn chỉnh thời các chúa Nguyễn mà lại chưa được đề cập nhiều trong sách trên, cần bổ sung vào sách. GS Sâm có vẻ cũng muốn vậy nhưng c̣n có ư ngần ngại v́ các hầu hết các vở tuồng cổ đều không có tên tác giả và niên đại sáng tác, việc đẩy sớm niên đại của chúng lên thời các chúa Nguyễn c̣n là một vấn đề tồn nghi, dễ gây tranh căi.
Sau đây chúng tôi xin vận dụng một số kiến thức về chữ Nôm cổ, về chữ húy, và sử dụng một số lập luận khác nữa để làm sáng tỏ vấn đề này, qua một số văn bản tuồng chữ Nôm cổ mà chúng tôi có được.
1. VỀ NIÊN ĐẠI VỞ TUỒNG CỔ "AN TRIỀU KIẾM" QUA CÁC CHỮ NÔM CỔ TRONG VỞ TUỒNG NÀY
Vở tuồng chữ Nôm cổ "An triều kiếm" (ATK) có 3 hồi, kết cấu, kịch tính, và tŕnh độ văn học không thua kém ǵ vở tuồng mẫu mực “Sơn Hậu”. Chúng tôi có văn bản tuồng này trong bộ Tuồng chữ Nôm cổ hiện lưu giữ tại thư viện Vương quốc Anh, chúng tôi đă phiên chú và hy vọng có dịp sẽ giới thiệu với đông đảo bạn đọc bản dịch và nguyên bản có cả chữ Nôm chế bản vi tính để đối chiếu.
Nhà nghiên cứu Tuồng Mịch Quang, trong hội thảo về Tuồng cung đ́nh tổ chức ở Huế hè năm 2001 có đưa ra nhận định về niên đại vở Tuồng cổ "An triều kiếm" này ra đời vào thời Tây Sơn, chúng tôi xin trích nguyên văn một đoạn trong tài liệu tham luận của Mịch Quang: "Thời kỳ đầu, nhà Tây Sơn vẫn giữ chủ trương phù Lê, cho nên ḍng Tuồng cung đ́nh vua băng nịnh tiếm vẫn tiếp tục phát triển, mà có lẽ vở "An trào kiếm" với cặp nhân vật trung tâm là cha con nông dân Tiết Thanh, Tiết Tẵng đă ra đời thời ấy ở B́nh Định. Không biết Tuồng Huế thế nào, chứ giữa Tuồng Quảng Nam và B́nh Định th́ các nghệ nhân B́nh Định hơn hẳn Quảng Nam về vở tuồng này..."
Văn bản tuống chúng tôi có vốn chỉ là một bản chỉnh lư của ban Hiệu thư triều Nguyễn, khoảng cuối TK 19, sau thời Tự Đức, nên vết tích các chữ Nôm cổ thời Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn hầu như không c̣n, nhưng chịu khó t́m th́ không phải là không có. Trên cơ sở phân tích các cứ liệu về các chữ Nôm cổ này trong vở ATK, chúng tôi cho ư kiến của Mịch Quang là xác đáng, thậm chí có thể niên đại vở Tuồng c̣n sớm hơn đời Tây Sơn một ít, vào khoảng các đời chúa Nguyễn cuối, giữa thế kỉ 18.
Điều đó dựa vào một số chữ cổ chúng tôi dẫn lần lượt sau đây:
1.
Chữ "khỏe
跬"
nghĩa cổ là vững chắc, có trong câu hát cuối hồi 2 của vở Tuồng 3 hồi này
như sau: "Ngoài chưa an vạc chín
Trong đă khỏe giềng ba
Thứ này chưa khôi phục sơn hà
Thứ sau mới trung hưng tái tạo"
Trong "La sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hăn" tập 3 (NXBGD 1998), ông Hoàng Xuân Hăn
có chú rất rơ đây là chữ cổ chỉ có trong các văn bản đời Lê, ông có đưa ra
toàn bài phú Nôm "Đại Đồng phong cảnh" của Nguyễn Hàng (đậu hương cống đời
Lê Tương Dực 1509-1515, khi họ Mạc cướp ngôi lui về ở ẩn, mất khoảng đầu đời
Lê trung hưng), có câu "Đùn đùn non Yên Ngựa, mấy trượng khỏe
thế kim thang. Cuồn cuộn thác Con Voi, chín khúc bền h́nh quan tỏa...",
Hoàng Xuân Hăn chú sau bài này "Khỏe nghĩa là vững, tiếng cổ đời Lê". Trong
Tự điển từ cổ của Vương Lộc (NXBĐN 2001) có giải nghĩa chữ này giống
Hoàng Xuân Hăn và dẫn ra 4 câu ví dụ th́ có đến 2 câu ở trong "Quốc Âm Thi
tập" của Nguyễn Trăi tức là đầu đời Lê.
2. Chữ "ca 歌 " là ở, tại, có trong mấy câu đầu hồi 2 của vở Tuồng ATK:
"Thấy học tṛ cầm bút
ca ta
Học tṛ ấy chẳng là chữ sĩ
Luận cho minh lư
Nhất dưới thập trên..."
Cầm bút ca tay tức là cầm bút ở tay. Trong Tự điển từ cổ của Vương
Lộc, chúng tôi t́m thấy chữ ca là chữ cổ nghĩa là "ở, tại" cùng hàng
loạt câu dẫn chứng mà đều ở trong các tác phẩm đời Lê như Thiên Nam Ngữ Lục,
Chỉ Nam Ngọc Âm giải nghĩa.v.v.
Có lẽ thế kỉ 19 (triều Nguyễn) chữ này đă không c̣n được sử dụng nên không
t́m thấy nó trong cuốn Đại Nam quốc âm tự vị của Húnh Tịnh Của (1895),
cũng như cuốn từ điển “Dictionarium Annamitico Latinum” của A.L.Taberd
(1838)
3. Chữ thon von, nghĩa là suy vi, chông chênh nguy hiểm, mà ngày nay đă biến âm là chon von, nhưng bản tuồng ATK vẫn viết sát ngữ âm cổ là "thôn viên" (村 員 ) với dấu nháy cá bên chữ thôn và viên :.
"Quả Vạn thị giữa trời
đồ số (đồ sộ)
Thị Tống trào thế nước thon von (chon von)."
Có thể t́m thấy hai chữ này trong Tự điển từ cổ, trong đó dẫn hai câu
thí dụ th́ lại là hai tác phẩm đời Lê "Bạch Vân Quốc Ngữ Thi" và "Thiên Nam
Ngữ Lục", không có tác phẩm nào đời Nguyễn.
4.
Chữ rấp cật hay sấp cật (
拉
) nghĩa là
quay lưng, nghĩa bóng là "bỏ đi", có trong câu tuồng: "Chàng đà
rấp cật
Ta mới trở lưng..."
5.
Chữ bắc mặt
北
nghĩa là ngẩng
(ngoảnh) mặt về, nghĩa bóng là "ra đi về phía", có trong câu:
" Tạm bàn thạch nghỉ
lưng
Đợi tỏ ác vàng bắc mặt"
(Mục này không thấy có trong "Tự điển từ cổ", nhưng cũng chưa chắc là chỉ có
trong các vở Tuồng thời các chúa Nguyễn, chúng tôi tạm đưa ra như một nghi
vấn).
6. Chữ mi 縻 nghĩa là gắn bó với, kết bạn với:
柳
椿
眉
倍
伴
松
柏
結
英
㛪
迻
椿
似
琴
渃
吹
敲
敲
羕
樂
"Liễu thung mi bầu bạn
Tùng bách kết anh em
Gió đưa xoan lăng lẳng tự cầm
Nước xoi đá xao xao dường nhạc...."
Chữ này Tự điển từ cổ không chú nghĩa "kết bạn" mà chú nghĩa là
"trói, giam" nhưng xét thấy từ "kết bạn" vốn gốc chữ Hán mà kết có
nghĩa là buộc, th́ cũng gần với trói, như vậy mi bầu bạn
với kết anh em th́ cũng như nhau. Trong Tự điển Thiều Chửu cũng có
một chữ Hán mi chú như sau:
(縻):
Mi, ràng buộc. Như ky mi
(羈 縻):
lấy ân ư mà ràng buộc ḷng người.
Chú ư bản tuồng lại viết với chữ mi (眉),
có lẽ tác giả coi đây là tiếng Nôm rồi.
7. Chữ hướng lượng 向 量 nghĩa là ồn ào, nóng nảy, trong bụng không yên, có trong câu:
"Thấy nói nổi
hướng lượng
Nghe tâu hóa trận lôi đ́nh ..."
Ban đầu chúng tôi cũng không dám chắc nghĩa, v́ ngay cả tự điển từ cổ của Vương Lộc cũng không thấy có chữ này. Nhưng t́nh cờ đọc thấy trong một vở tuồng khác cũng có hai chữ này mà đoán ra nghĩa.
8. Chữ rầy hay dầy là tiếng đệm cổ trong bản Phạm Công tân truyện thấy dùng rất nhiều, bản tuồng ATK có trong câu:
"Trời đă xế vừng hồng
Ta khôn t́m rầy dặm bắc..."
Tuy ư nghĩa có vẻ gần như tiếng rầy (rày=nay, bây giờ) trong ngôn ngữ hiện đại, nhưng dùng trong những kết cấu như trên thấy cổ về mặt cú pháp. Thử so với vài ví dụ trong Phạm Công tân truyện như "Khen chàng có tiết nghĩa rầy lắm thay" thấy rơ đây là tiếng đệm cổ chứ không giống tiếng "rày" hiện đại vẫn hay dùng ở miền Nam. Cần nói rơ thêm là có một số tác giả có nhận định là truyện Nôm “Phạm Công Tân Truyện” có thể ra đời khoảng nửa đầu thế kỉ 18, do ngôn ngữ và nghệ thuật thấy thua kém các truyện ra đời sau như Hoa Tiên, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên ... rất nhiều.
9.
Có nhiều chữ nghĩa cổ, mà chúng
tôi vẫn chưa chắc về âm đọc và ư nghĩa.
Như chữ "miễng" hay "mỉm" chữ Nôm viết (唤):
"Mặt tô hàm yến
Miệng mỉm Lư Lâm
Pḥ trào Tống tằng mảng oai hùm
Chấp chánh nước đă vinh trướng chấu..."
“mỉm” th́ cũng có nghĩa, nhưng ở đoạn khác lại vẫn chữ đó:
"Trẫm từ trên đông chánh
Chư hầu đă miến ( ?) oai
Duy thần tôn cơ nghiệp lâu dài
Nối thánh tổ giang sơn vững đặt..."
Hoặc hai chữ mà ghi bằng
chữ Hán lăng cường (陵
強 )
"Từ Liêu Đông khởi ngụy
Ra trừ đảng lăng cường (?)..."[1]
10.
Đặc biệt có một chữ lạ rất
đáng quan tâm, đó là chữ (灵+庄)
(kết cấu gồm chữ linh là thiêng bên chữ trang chỉ âm, chúng
tôi đề nghị phiên với phụ âm CH, tức là chang v́ TR là biến âm của TL
hay BL mới có trong tiếng Việt về sau thời Lê chứ không phải âm cổ), có
trong câu:
"Vận đổi dời khá trách với
chang
Thời tráo chác khôn hiềm tạo
hóa..."
Chúng tôi ngờ nó có liên quan tới chữ “giàng” nghĩa là trời, là linh thiêng, mà một số dân tộc thiểu số ngày nay c̣n dùng…
11. Ngoài ra vở ATK c̣n vài chữ cổ khác như phen 番 (b́ với), min 㒙 (ta), nong nả 挪 (gắng sức), chác thửa 啅使 (mua lấy), nấy 扔 (trao cho), tếch 踖 (tách), ghe 稽 (nhiều) .v.v. nhưng các vở Tuồng thời Nguyễn ví dụ "Kim Thạch kỳ duyên" thỉnh thoảng vẫn c̣n dùng nên chúng tôi không coi đó là các bằng chứng thời Lê mạt.
Vở tuồng này có cả những tiếng địa phương như "đéo hỏa" được coi là phương ngữ Nam Bộ, nhưng thiết nghĩ người Nam Bộ vốn ở Bắc và Trung di cư vào Nam khoảng thế kỉ 18, khoảng cuối đời Lê mạt, đă giữ được những tiếng cổ vào thời này (người đi xa lại có xu hướng giữ tiếng cổ nơi ḿnh ra đi) ?
Xem h́nh minh họa bên cạnh (đọc theo cột):
墓 吒 侈 交 更
咣
Mồ cha đứa giao canh
ĐÉO HỎA gà gáy quáng
Có một điểm đáng để ư
nữa là trong vở tuồng này có một nhân vật nổi bật là trạng nguyên Phụng Kính
Văn, trụ cột của phe “chính”, mà ta biết rằng triều Nguyễn không lấy Trạng
Nguyên khi thi cứ (do lệ “tứ bất lập”) ! Điều này cũng góp phần củng cố giả
thuyết (tất nhiên không phải là điều đương nhiên, v́ đây là chuyện bên Tàu)
là nó được viết trước triều Nguyễn.
Cuối cùng nếu xét riêng về ngôn ngữ Tuồng chúng tôi thấy vở Tuồng An triều kiếm này dùng câu chữ Hán khá ít, các câu hát Nôm rất hay và nhuần nhuyễn, đúng phong cách như vở Sơn Hậu là một vở mà nhiều nhà nghiên cứu về Tuồng cho rằng ra đời giữa thời các chúa Nguyễn tức là đời Lê Trung hưng. Nếu để ư th́ thấy các vở Tuồng ra đời muộn hơn, giữa và cuối triều Nguyễn, như "Kim Thạch kỳ duyên" chẳng hạn, thường dùng các câu hát chữ Hán khá nhiều, phong cách rất khác.
2. VỀ NIÊN ĐẠI VỞ TUỒNG
SƠN HẬU:
Vở Sơn Hậu theo truyền thuyết th́ do chính ông tổ nghề tuồng ở Đàng Trong là Đào Duy Từ (1572-1634) sáng tác, nhưng nhiều nhà nghiên cứu bác bỏ điều này v́ nó quá “hoàn mỹ”, không thích hợp với giai đoạn đầu h́nh thành của Tuồng ở Đàng Trong. Một số nhà nghiên cứu trung dung hơn th́ cho rằng có thể Đào Duy Từ là người khởi thảo vở Tuồng, sau đó nó được bổ sung hoàn chỉnh dần, có điều h́nh thức ổn định của nó như ngày nay chúng ta biết là có từ thời Trịnh-Nguyễn hay thời Nguyễn th́ vẫn c̣n là một dấu hỏi.
Chúng tôi th́ tin là nó đă hoàn chỉnh sớm vào thời Lê mạt, sau khi Đào Duy Từ mất không lâu, nên xứng đáng có 1 vị trí trong “Văn Học Nam Hà” TK17-18. Nhưng thật đáng tiếc là do nó kinh qua nhiều sự sao chép, tu sửa, hoàn chỉnh của người sau, nên với các bản Nôm chúng ta hiện có, khó có thể vận dụng các nghiên cứu về chữ cổ hay chữ húy để ước định niên đại h́nh thành được nữa. Dựa theo bản quốc ngữ của Hoàng Châu Kư (NXB Văn hóa 1978) và bản Nôm của Hoàng Văn Ḥe (Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Sài g̣n 1971, bản Nôm có ghi niên đại Khải Định nhị niên tức năm 1917) chúng tôi có thấy một số chữ cổ và lạ nhưng chưa dám chắc lắm, như ở bản Nôm Hoàng Văn Ḥe:
基 業 撕 恪
兵 權 謝 羕 如
“Cơ nghiệp Tề chẳng khác trứng chồng
Binh quyền Tạ dường như đá quản” (chúng tôi chưa hiểu quản là
ǵ)
hay ở bản quốc ngữ Hoàng Châu Kư :
“Trẫm tưởng là miên viễn lầu rồng
Hay mỗ phút sớm rời xe hạc”
(Mỗ là một vài, mấy… thấy có trong bản “Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân
Tông - tổ thứ nhất của Trúc Lâm Thiền Tông, đầu thế kỉ 14, và thơ Nôm Nguyễn
Trăi)
Cũng ở bản Hoàng Châu Kư:
“Xa nghe tiếng họ Khương đă phải
Nhưng mơ màng ốt gẫm khó tin”
Ốt là từ cổ, Hoàng Châu Kư chú nghĩa gần như “quyết”, nghĩa câu này là “nghĩ
quyết khó tin”, chữ này chưa thấy ở các vở tuồng muộn hơn;
mà ngay trong bản Nôm Sơn Hậu
của Hoàng Văn Ḥe chúng cũng đă bị đổi sang chữ khác như câu “Hay mỗ phút
sớm rời xe hạc” bị đổi là “Hay đâu lại sớm rời xe hạc”, chứng tỏ là
từ “mỗ phút” vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đă thành tiếng cổ,
ít người hiểu, nên bị đổi đi.
…
Nói chung, các chứng tích chữ cổ c̣n quá ít, và không chắc chắn, không thể bàn nhiều, nhưng có thể đưa ra vài suy luận gián tiếp về nguồn gốc thời Trịnh-Nguyễn của vở này:
- Vở này được xếp vào hạng “Tuồng Thầy”, là vở kinh điển của nghề Tuồng, là vở dùng “dạy nghề” cho các diễn viên Tuồng, chắc phải có lư do ǵ chứ ? Chữ “Thầy” theo chúng tôi nghĩ chính là trỏ Đào Duy Từ, cũng như tên gọi Lũy Thầy tức Lũy Nhật Lệ ở Quảng B́nh là công tŕnh tiêu biểu trong sách lược của Đào Duy Từ để đối đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Nên khả năng nó được khởi thảo từ thời Đào Duy Từ và hoàn chỉnh đầu thế kỉ 18, giữa thời Trịnh-Nguyễn, là rất lớn.
- Thiết nghĩ các vở Tuồng rất hoàn chỉnh như An Triều Kiếm nói trên và Lôi Phong Tháp, mà chúng tôi sẽ đề cập ở dưới, đă có khả năng sáng tác vào thời Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn, th́ vở Tuồng “giáo khoa” để dạy, để học nghề Tuồng là “Sơn Hậu” tất phải hoàn chỉnh từ trước nữa !
3. VỀ NIÊN ĐẠI VỞ TUỒNG CỔ "LÔI PHONG THÁP " QUA CÁC CHỮ HÚY VÀ CHỮ NÔM CỔ TRONG VỞ TUỒNG NÀYVăn bản Nôm vở tuồng Lôi Phong Tháp chúng tôi có được do GS Nguyễn Văn Sâm có nhă ư cung cấp, theo GS Sâm th́ nó được góp lại từ 2 bản không đầy đủ, có xuất xứ từ vùng đất tổ nghề Tuồng là B́nh Định. Đây là một vở tuồng khá lớn, hồi cuối hiện sưu tầm được là hồi 11, và có thể c̣n có một hồi kết là hồi 12 nữa.
Công tŕnh biên
khảo-phiên chú về vở này GS Sâm chưa đưa in nên chúng tôi chưa tiện đề cập
nhiều về nó, ở đây chỉ xin phép dẫn một số chữ cổ và chữ húy trong vở này để
phục vụ chủ đề của bài viết:
1) Tại trang đánh số 16, hồi 2, chúng tôi phát hiện có một chữ viết kị húy:
“Gởi cho gă nguồn cơn nói thử”, chữ nguồn đáng lư viết bộ thủy (源), nhưng do kị húy chúa Nguyễn Phúc Nguyên nên đă viết với bộ mộc榞 (xem ảnh chụp)
Nhân trao đổi với GS Nguyễn Tài Cẩn về dị bản trong Truyện Kiều, câu (157) “Nước non cách mấy buồng đào” hay “Nước non cách mấy nguồn đào”, chúng tôi được GS Cẩn cho biết một thông tin quan trọng là chữ “nguồn” tức “nguyên” (源) là chữ kị húy từ đầu đời Gia Long, nhưng đă được Minh Mạng ban lệnh thôi kị húy từ 1825. Như vậy rất có thể bản gốc của tuồng Lôi Phong Tháp đă có từ đầu đời Minh Mạng hay thậm chí đời Gia Long. Đây quả là một phát hiện bất ngờ v́ với độ dài tới 11-12 hồi ban đầu chúng tôi nghĩ đây phải là một vở tuồng có từ giữa hay cuối triều Nguyễn. Thực ra văn bản sưu tầm được chắc chỉ là một bản sao lại, v́ có viết húy chữ Th́ (時 , húy vua Tự Đức) thành chữ “th́n 辰” như vậy được sao chép thời Tự Đức hay sau nữa.
2) Tại trang đánh số 15, hồi 3, chúng tôi để ư tới câu :
“Nhung Bắc Ninh, kỳ B́nh Thuận, sâm Quảng Ngăi, quế Thanh Hoa …”
Thanh Hoa 清 花 tức là Thanh Hóa, do kị húy mẹ vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa mà đổi đi. Bà này là vợ vua Minh Mạng, sinh Thiệu Trị năm 1807, ngay khi sinh xong th́ mất, vua Gia Long thương xót nên khoảng năm 1816 đă ban lệnh kị húy chữ Hoa. Có thể dẫn thêm một ví dụ ở Huế là chợ “Đông Hoa” (thời trước ở ngay trước cửa Đông Hoa tức Chính Đông Môn, năm 1906 bị hỏa hoạn rời ra chỗ hiện nay ở khoảng giữa cầu Trường Tiền và cầu Gia Hội) đă được đổi thành “chợ Đông Ba”. Vở ATK thấy cũng có kị húy chữ hoa, nên “hoa biểu” (華表 là bia mộ) viết thành “ba biểu 葩 表 ”.
Quay lại với chủ đề của chúng ta, việc có địa danh Thanh Hoa với chữ “hoa” viết không kị húy khiến chúng ta có thể mạnh dạn đẩy niên đại bản gốc vở tuồng LPT lên tới thời Gia Long, cụ thể là trước năm 1816.
3) Đi sâu hơn nữa chúng tôi thấy vở tuồng này cũng có chữ cổ “ca tay” như vở ATK đă đề cập ở trên:
Trang đánh số 20, hồi
11:
“Bưng kim bát ca tay ,
Chỉ Tây Hồ kíp tới…”
Xin nhắc lại nhận xét của chúng tôi: đây là chữ khá cổ, có thể là trước thế
kỉ 19.
4) Tại trang 13, hồi 2
, có câu nói của nhân vật Lư Công Phủ “Phỉnh Hớn Văn cho đơn, dễ hầu
sang tiền điếm làm chi…” 漢文朱丹
,易候 𘖅
銭 店 之
, khi nhân vật này nói gạt nhân vật Hớn Văn là qua tiền điếm đổi bạc cho Hớn
Văn, nhưng thực ra lại tới gặp quan huyện tố cáo đây là bạc gian, ăn cắp ở
kho của huyện…
Ban đầu chúng tôi không hiểu ư câu này, nhưng chợt nhớ trong vở An Triều
Kiếm cũng có hai chữ tương tự trong câu :
朱 臣 下 啅 使 咮
丹
𗗱
草 舍 免 戈 𓈗
泊
“Cho thần hạ chác thửa chau đơn
Về thảo xá miễn qua ngày bạc…”
Ở thế đối với “bạc” th́ “đơn” phải hiểu là đơn sơ, sơ sài… vậy
chau đơn
咮 丹có
thể hiểu là “sơ sài, quấy quá cho xong”, đặt vào văn cảnh ở cả hai vở tuồng
đều hợp… Có lẽ v́ “châu đơn” cũng có nghĩa nên
người viết đă cẩn thận thêm bộ khẩu bên chữ châu, để nhắc là phải đọc khác
đi, có thể là “cho đơn”, “chau đơn” hay “chua đơn”...
Do đó chúng tôi mạo muội đoán đây là chữ cổ, với ư nghĩa như trên. Hai chữ
này cực hiếm, ngoài hai trường hợp ở hai vở tuồng trên chúng tôi chưa hề gặp
ở đâu, nên có lẽ chúng là chữ cổ chỉ dùng ở thời Lê !
5) Cuối cùng xét về nội dung chúng tôi để ư thấy trong vở tuồng này trang 1, hồi 7, có câu :
“Cổ tam thông Thổ tặc
tận b́nh ,
Quân nhất lệnh Xiêm binh tịnh diệt…”
Về chữ Thổ tặc, GS N.V.Sâm chú: “Thổ tặc tận b́nh 土 賊 盡 平 : trừ tan những giặc cỏ địa phương, đây nói là người Lục Chân Lạp sống ở vùng Hậu Giang ngày nay”, đối chiếu với lịch sử chúng tôi cho rằng vở tuồng đang nói về giai đoạn lúc các chúa Nguyễn mới vươn tới vùng châu thổ sông Cửu Long (năm 1693 sai Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) vào b́nh định, lập trấn lị Gia Định năm 1698), về sau này thời các vua Gia Long, Minh Mạng cũng có tranh chấp với Xiêm, nhưng là tranh chấp quyền bảo hộ Lào và Chân Lạp (Campuchia) chứ vùng châu thổ Cửu Long th́ đă xác lập chủ quyền vững chắc.
Hơn nữa chỉ cách mấy câu
ở dưới lại có câu:
“Bữa diếp Lương vương dời trát,
Nă giao đạo phạm nhất đinh”
Nhân vật có ngôi vị cao nhất trong vở tuồng, có quyền đưa trát, phát sứ …
lại chỉ có tước vương mà thôi. Đối chiếu với lịch sử th́ măi đến đời chúa
Nguyễn Phúc Khoát mới chính thức xưng vương (vào năm 1744, khi đó có sai sứ
sang xin nhà Thanh phong vương nhưng không được v́ nhà Thanh chỉ thừa nhận
vua Lê) .
Tóm lại khi xét về nội dung cũng có vài chứng cứ là vở tuồng này có vẻ đă được viết từ thời các chúa Nguyễn (nhưng có lẽ mới ở dạng khởi thảo)!
4. BÀN RIÊNG VỀ TÁC PHẨM SĂI VĂI
Các sách nghề tuồng
xưa vốn không có đề cập ǵ về Săi Văi, ngay cả tác giả Nguyễn Cư Trinh
(1716-1767) là một nhân vật văn học lớn của Nam Hà, nhưng sử sách cũng không
hề nói ǵ đến chuyện có soạn tuồng.
Chúng tôi không hiểu từ bao giờ một số nhà nghiên cứu về tuồng đă bắt đầu
dẫn giải về Săi Văi như một h́nh thức sơ khai của tuồng, phải chăng do chỗ
Nguyễn Cư Trinh đă vận dụng thể văn đối đáp biền ngẫu khi viết Săi Văi ?
Trong Săi Văi có nhắc tới việc đánh mọi “Đá Vách”, đối chiếu lịch sử th́ đó
là năm 1750, khi Nguyễn Cư Trinh được bổ làm tuần phủ Quảng Ngăi để dẹp cuộc
nổi dậy của người Đá Vách.
Đọc Săi Văi th́ thấy chỉ có hai nhân vật, đối đáp cũng đơn giản, không hề có
diễn biến, sự kiện, kịch tính ǵ hết, nếu cho rằng sau năm 1750 tuồng vẫn
c̣n ở h́nh thức sơ khai như vậy, th́ việc nhận định tuồng đă phát triển từ
thời chúa Nguyễn là không có cơ sở, v́ sau 1750 th́ nền chính trị của Đàng
Trong đă rất suy vi, Tây Sơn nổi lên từ 1771, quân Trịnh th́ đánh vào chiếm
Phú Xuân năm 1775, từ đó chiến tranh liên miên cho đến khi Gia Long lên ngôi
1802, không có khoảng lặng nào khả dĩ để phát triển nghệ thuật Tuồng cả. Do
đó chúng tôi nghĩ phải phân tích kĩ Săi Văi để bác bỏ sự gán ghép khiên
cưỡng cho Săi Văi là một điểm mốc đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật
Tuồng ở Đàng trong !
Thật may mắn là chúng ta vẫn bảo tồn được một vở tuồng c̣n ở h́nh thức rất
đơn giản là tuồng Tiên Bửu - Lăo Trượng, để mà so sánh với Săi Văi. Vở này
cũng chỉ có hai nhân vật đối đáp qua lại (sách báo c̣n nói có vài nghệ nhân
có thể đóng cùng một lúc cả hai nhân vật này, tức là chỉ cần 1 diễn viễn !).
Tuy chỉ có hai nhân vật nhưng vở tuồng vẫn có lớp lang hoàn chỉnh, có diễn
biến, có kịch tính, có cao trào…
Xin tóm tắt nội dung như sau :
Có một lăo trượng t́nh cờ gặp cô lái đ̣ trẻ là Tiên Bửu, theo tán tỉnh măi
không được, Tiên Bửu bực ḿnh xúi lăo trượng tắm dầu sôi để chết đi đầu thai
lại th́ sẽ lấy được ḿnh, không ngờ lăo trượng lại dũng cảm nhận sự thách
thức, chấp nhận cái chết. Kịch tính lên đến cao trào khi lăo trượng nhảy vào
nồi dầu sôi, lại sống lại, hóa thành một chàng trai trẻ khôi ngô tuấn tú,
lúc này đến lượt Tiên Bửu ṭ ṭ theo chàng trai mà chàng lại không chịu
nh́n… và vở tuồng kết thúc ngang đó.
So sánh về tính kịch th́ Săi Văi c̣n thua xa vở TB-LT, cũng không thấy các
thay đổi làn điệu hát tuồng khá đầy đủ như trong TB-LT (bản của Lê Ngọc Cầu
biên khảo, NXB Văn hóa 1980), nếu gán ghép Săi Văi như một mốc phát triển
của tuồng th́ có lẽ phải đặt trước TB-LT đến 40-50 năm, c̣n các vở hoàn
chỉnh như Sơn Hậu, An Triều Kiếm th́ có lẽ phải đến 60-70 năm sau Săi Văi
mới có. Nhưng nếu vậy th́ khoảng 1800 mới xuất hiện một vở tuồng c̣n khá thô
sơ như TB-LT ? Thật khó mà tin rằng chỉ hơn chục năm sau đă có vở Lôi Phong
Tháp đồ sộ 11 hồi, như bằng chứng về chữ húy - chữ cổ mà chúng tôi đă nêu
ra ở trên ! Mà đâu có sử sách nào ghi nhận về sự phát triển đột khởi của
Tuồng đầu đời Gia Long ?
Cái kết luận rút ra là Nguyễn Cư Trinh đă vận dụng thể văn biền ngẫu và kết
cấu đối đáp của Tuồng, khi đó đă rất hoàn chỉnh, để sáng tác nên một tác
phẩm văn học xuất sắc, chứ không phải ngược lại là thể loại Tuồng đă khơi
mào từ tác phẩm Săi Văi của Nguyễn Cư Trinh ! Nếu bỏ qua tính kịch, chỉ so
sánh về ngôn ngữ, h́nh tượng, nghệ thuật văn học th́ Săi Văi lại vượt xa vở
TB-LT rất nhiều, ví dụ thử so sánh các câu tán tỉnh của Lăo Trượng, có hơi
hướng ca dao và khá tục, với các câu tán tỉnh văn vẻ - học thức của nhân vật
Săi th́ rơ: Lăo Trượng th́:
C̣n Săi th́:
“Khoan khoan! Chưa biết
! Văi ở chùa nào ?
Thanh tân mày liễu má đào,
Đẹp đẽ mắt sao da tuyết.
Ḷng người dầu thiết,
Thời đạo cũng đặng gần.
Qua Tây Phương c̣n cách trở hang thần,
Sau phương trượng lại sẵn sàng bàn Phật
Ngoài che sáo nhặt,
Trong phủ màn thưa.
Lạnh thời có mền bát ti,
Nực thời có quạt lục phủ.
Chiếu du trơn như mỡ,
Thuốc lá ướp hoa ngâu.
Rượu hồng cúc ngào ngào,
Trà tiên thơm phức phức.
Sẵn đồ sẵn đạc,
Sẵn Văi sẵn thầy.
Liêu sau cũng gần đây,
Vào cùng Săi đặng tu hoài tu hủy…”
(Theo bản Nôm Săi Văi trong “Văn học Nam Hà”)
Tóm lại giá trị nghệ thuật của tác phẩm Săi Văi th́ không phải bàn căi, nhưng nó chỉ có vài nét giống Tuồng chứ không hề đại biểu cho Tuồng ở khoảng giữa thế kỉ 18. Việc gán ghép nó như một cột mốc phát triển của nghệ thuật Tuồng là một sự ngộ nhận tai hại, cần kiên quyết bác bỏ nếu muốn phác họa đúng lịch sử phát triển của Tuồng: Các vở Tuồng có kết cấu hoàn chỉnh như Sơn Hậu có thể đă định h́nh từ đầu thế kỷ 18, vào thời đang hưng thịnh của các chúa Nguyễn, trước Săi Văi khá xa.