huge boobs pictures hd. 3gp desi glamcore perfect goddesses in oral.

https://eporner.monster destiny blonde has a sweet teen pussy.

Tư liệu

Ca trù

“Chùa Một Cột” không phải là chùa!

Trần Trọng Dương
 
Hoành phi “Liên Hoa đài” mới làm, có lẽ là
một đính chính ý nhị của thầy trụ trì chùa Diên Hựu
ngày nay (ảnh chụp ngày 06/04/2012).
Sau khi đăng bài Chùa Diên Hựu- Một Cột – lịch sử và biểu tượng của tác giả Trần Thị Kim Anh, Tia Sáng tiếp tục nhận được bài viết của TS Trần Trọng Dương* thảo luận về tên gọi của kiến trúc mà theo ông không phải “chùa” như cách nói của dân gian bấy lâu nay mà vốn là “liên hoa đài” – một đơn nguyên kiến trúc thuộc tổng thể mặt bằng của chùa Diên Hựu.
Không có khái niệm “chùa Một Cột” Một điều trước hết mà chúng tôi có thể nhận định rằng, khái niệm “chùa Một Cột” dùng để định danh cho kiến trúc một cột kia là một sản phẩm do người sau gán đặt. Đó là một cái tên hoàn toàn dân gian, theo kiểu mô tả cụ tượng “thấy gì gọi thế”. Việc dân gian hóa tên gọi ấy đã được thực hiện từ khá sớm vào cuối thế kỷ XVII. Cứ liệu là tấm bia mang tên Nhất Trụ tự bi mang số hiệu 20917 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), có niên đại Cảnh Trị năm thứ 3 (1665), do Hòa thượng Tỳ khưu Lê Tất Đạt soạn.  Bia có đoạn như sau: “Khi vua Lý Thánh Tông chưa có hoàng tử, thường hương khói cầu tự ở đây. Một hôm ngài mộng thấy Phật Quan Âm dắt lên trên lầu, bế một đứa trẻ đặt vào lòng ngài. Tháng đó Hoàng thái hậu liền có mang hoàng tử. Vua bèn làm thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên hữu chùa Một Cột, để mở mang việc thờ phụng, để tỏ rõ sự tôn sùng.”1 Từ tên văn bia, cho đến đoạn in đậm ở trên, chúng ta thấy người soạn không nắm rõ lịch sử, chức năng và ý nghĩa của kiến trúc này. Ông gọi đó là “chùa Một Cột” và còn dịch ngược sang tiếng Hán là “Nhất Trụ tự”, và coi chùa Diên Hựu là công trình xây dựng sau, đi kèm với “chùa Một Cột”.Về nguồn gốc tên gọi này, Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung tùy bút (bản R.1609 Thư viện Quốc gia) cho biết: “Chùa Diên Hựu ở thời Lý tục gọi là chùa Một Cột”2. Thực ra, ở đây, Phạm Đình Hổ cũng đã nhầm khi ông tin vào “tục danh” của dân gian mà gọi là “chùa Một Cột”. Nhưng, câu văn của ông cho chúng ta biết ba thông tin khả thủ: (1) Kiến trúc này vốn có tên chữ là “Diên Hựu tự”; (2) Chùa Diên Hựu dựng từ đời Lý; (3) cái tên “Một Cột” kia chỉ là cái tên dân gian mà thôi. Sở dĩ nói là khả thủ bởi chúng ta sẽ thấy nó trùng khít với một số sử liệu đương thời về ngôi chùa này như trình bày dưới đây.Khảo khắp các sử liệu, nhà nghiên cứu Trần Thị Kim Anh trong bài “Chùa Diên Hựu- Một Cột – lịch sử và biểu tượng”3 đã công bố những tư liệu gần như đồng đại với thời điểm xây dựng di tích này, ví dụ như Đại Việt sử ký toàn thư (biên soạn từ thế kỷ XII-XVII) và các tư liệu bi ký (tiêu biểu như văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (năm 1121) đời vua Lý Nhân tông, bài thơ Diên Hựu tự của Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang Lý Đạo Tái). Tất cả các tư liệu thời Lý – Trần đều ghi chùa có tên chữ là “Diên Hựu”, không hề có tên “Nhất Trụ tự”.Theo các mô tả mặt bằng cảnh quan di tích của các tư liệu trên thì cái mà được đời sau gọi là “chùa Một Cột” kia chỉ là một đơn nguyên kiến trúc nằm trong tổng thể kiến trúc của chùa Diên Hựu mà thôi. Điều này chúng ta có thể thấy rõ khi khảo sát thực địa: kiến trúc “một cột” nằm trong khuôn viên chùa Diên Hựu, ở mé Tây của tử cấm thành Thăng Long. Vậy “một cột” là kiến trúc gì? Chúng ta sẽ thấy rõ tên của kiến trúc này qua sử liệu sau đây trong Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XVII): ghi năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 6 (1049), “Mùa đông tháng 10, dựng chùa Diên Hựu. Trước đây vua (Lý Thái Tông) nằm mơ thấy Phật Quan Âm ngồi trên đài sen dẫn vua lên đài. Đến khi tỉnh dậy nói lại với quần thần, có kẻ cho là điềm bất tường. Có vị thiền sư là bậc mẫn tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá giữa mặt đất, làm Quan Âm liên hoa đài ở đỉnh cột như đã thấy trong mộng, cho các sư đi vòng quanh tụng kinh cầu cho vua được trường thọ. Cho nên đặt tên như vậy”4. Tuy nhiên, theo chúng tôi cái tên “Quan Âm liên hoa đài” là cách định danh của các sử quan Nho gia từ đời Lê trở về sau. Cách định danh này có lẽ dựa trên những gì hiện tồn ở kiến trúc này vào thời điểm đó. Những mô tả trên rất khác so với những thông tin trong nguồn sử liệu sớm nhất mô tả về công trình này, đó là văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (khắc năm 1121). Văn bia này chỉ ghi vị thần được thờ phụng là Năng Nhân tức đức Thích Ca Mâu Ni5.Như vậy, có thể nhận định rằng “chùa Một Cột” là cách gọi của dân gian dành cho kiến trúc “liên hoa đài” – một đơn nguyên kiến trúc thuộc tổng thể mặt bằng của chùa Diên Hựu. Cho nên, gọi “đài” là “chùa” đã là một cái sai, gọi “Thích Ca liên hoa đài” thành “Quan Âm liên hoa đài” là cái sai thứ hai. Hơn nữa lại đồng nhất “chùa một cột thờ Quan Âm” thời Lê với chùa Diên Hựu thờ Phật Thích Ca Mâu Ni lại càng sai nữa6. Vì thế, chúng tôi đề nghị rằng nên phân tách các tầng lịch sử của kiến trúc này cũng như tín ngưỡng trong đó.

Vào thời Lý, kiến trúc là Thích Ca liên hoa đài, tín ngưỡng là thờ Phật Thích Ca. Từ đời Lê về sau chuyển thành “Quan Âm liên hoa đài”, tín ngưỡng thờ Phật Quan Âm. Tuy nhiên, cần nhận định lại lần nữa, dù liên hoa đài đó đặt tượng gì đi chăng nữa thì đó không phải là chùa, mà kiến trúc một cột đó chỉ là một phần thuộc khuôn viên chùa Diên Hựu mà thôi. Các cơ quan quản lý văn hóa hữu quan nên có những điều chỉnh cho đúng sát với thực tế lịch sử. Bởi chúng ta, nếu sơ xuất ở một vài chi tiết sẽ dẫn đến nhiều sai lầm khác có tính hệ thống.

Nguồn gốc và ý nghĩa biểu tượng của “liên hoa đài”

Liên hoa đài là một dạng thức kiến trúc Phật giáo, chức năng là để sùng phụng, thờ cúng đức Phật hoặc chư vị Bồ Tát. Về mặt từ nguyên, “đài” trỏ loại công trình được xây cao, để có thể nhìn ra bốn phía (tứ vọng). “Đài sen” là dạng kiến trúc truyền thống trong các tín ngưỡng thuộc Phật giáo có mặt trong nhiều nền văn hóa Đông Á. Phật Thích Ca tọa trên tòa sen báu là hình tượng biểu trưng đa nghĩa, vốn có nguồn gốc sâu xa trong văn hóa Ấn Độ cổ đại, cụ thể là trong văn hóa Hindu giáo như sẽ trình bày dưới đây.

Trước tiên là về biểu tượng hoa sen trong Hindu giáo. Hoa sen thường được tôn vinh cùng với thần Vishnu, thần Brahma và một số vị thần khác. Nó là biểu tượng của cái đẹp thuần khiết, không chút bụi tục, nó siêu việt khỏi thế giới ô trọc. Thần Vishnu được miêu tả với “đôi mắt hoa sen” là vì thế. Các kinh điển Ấn Độ thường khắc họa hình ảnh hoa sen sinh ra từ bùn lầy tăm tối và bừng nở ngoài ánh sáng, nó được coi như biểu tượng cho sự thăng hoa của tinh thần. Tranh tượng Hindu cũng thường tô điểm hình ảnh thần Vishnu ngủ mơ màng trên lưng rắn Naga đang bồng bềnh khắp mặt đại dương sinh-hóa, từ cuống rốn của thần mọc lên một đóa sen và từ đó nở ra thần Brahma. Thần Brahma được mệnh danh là thần sáng tạo, là vị chỉ huy, quyền năng vô cùng, chính vị thần này đã điều hòa các nghiệp kiếp cho chúng sinh, và là người sinh tạo ra thế giới muôn loài…
 
Du nhập vào văn hóa Phật giáo, hình ảnh hoa sen cũng luôn đi liền với Bồ Tát hay đức Phật. Hoa sen là loài hoa mang biểu tượng cao quý nhất của Phật giáo. Vì hoa sen biểu trưng cho Phật tính vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh. Khi Đức Phật đản sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni, dưới tán hoa Vô Ưu, ngài đã ung dung bước đi bảy bước trên bảy hoa sen mầu nhiệm: “Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc, Ba ngàn thế giới lễ Như Lai”. “Theo quan điểm của Phật giáo, hoa sen – Thích Ca Mầu Ni ngự trên đó – là bản thể của Đức Phật, không bị bùn lầy của samsāra tác động. Vật châu báu trong hoa sen (mani padme) là vũ trụ chứa đựng dharma (pháp), là ảo ảnh hình thức, hay là Mâyâ, mà từ đó nhô lên Niết bàn”7.

Đến đây có thể nhận định rằng liên hoa đài là một biểu tượng tích hợp các quan niệm khác nhau về thế giới trong văn hóa tâm linh cổ Á Đông. Từ Hindu giáo, hoa sen là phương tiện tạo tác ra thần Brahma, và sinh thành thế giới. Đến Phật giáo, hoa sen là loài hoa thiêng sinh ra Đức Phật và cao hơn nó là biểu tượng của Phật tính. Trong đời sống tâm linh Việt Nam qua nhiều thế kỷ, thờ Thích Ca có thể nói là tín ngưỡng từng tồn tại với những tầm mức đậm nhạt khác nhau. Với Thích Ca liên hoa đài ở chùa Diên Hựu qua ghi chép trong văn bia chùa Đọi, chúng ta biết rằng ở thời Lý, tín ngưỡng này đã lên đến địa vị tối cao, trở thành một tín ngưỡng của hoàng gia, cao hơn nữa Phật Thích Ca đã trở thành một vị thần bảo hộ quốc gia, nối dài mạch nước. Ngôi chùa có đơn nguyên kiến trúc Thích Ca liên hoa đài được đặt tên “Diên Hựu” chính là vì vậy.

Thích Ca liên hoa đài ở chùa Diên Hựu theo chúng tôi không chỉ đơn thuần là một chiếc đài dùng thể sùng phụng đức Thích Ca. Muốn hiểu đến tận cùng ý nghĩa biểu tượng của nó có lẽ chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh văn hóa Phật giáo thời kỳ này. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này sẽ được chúng tôi triển khai trong một bài viết khác.

* Viện Nghiên cứu Hán Nôm

1. Trần Thị Kim Anh, “Chùa Diên Hựu- Một Cột- lịch sử và biểu tượng”, Tia sáng số 7/2012. Trong bài này, tác giả cho rằng kiến trúc một cột là một dạng kinh tràng của Mật tông. Đây cũng là một giả thuyết đáng lưu ý.

2. Chuyển dẫn theo Trần Thị Kim Anh. Bđd.

3. Chuyển dẫn theo Trần Thị Kim Anh. Bđd.

4. Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản kỷ – Quyển II, Kỷ nhà Lý. Tr.37a.

5. Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.268.

Nguyên văn là “kim tướng chi Năng Nhân” nên dịch là “Phật Thích Ca Mâu Ni tướng vàng”. Sách Phạm võng kinh thuật ký ghi: “Thích Ca Mâu Ni, đại Đường phiên là Năng Tịch, trước kia phiên là Năng Mãn, cũng gọi là Năng Nhân. Thích Ca có nghĩa là Năng: tài năng, năng lực, bậc anh hùng. Mâu Ni có nghĩa là nhân, nhân từ. Cho nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn gọi là Năng Nhân”. [Kim Cương Tử (chủ biên). 1998. Từ điển Phật học Hán Việt. Nxb KHXH. Hà Nội. tr.497]. Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ dịch là “pho tượng sắc vàng” [Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). Thơ văn Lý Trần. Nxb KHXH, Hà Nội. 405]. Đỗ Bằng Đoàn dịch là “tượng Quan âm bằng vàng” [Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Nxb Văn học. 1992. Hà Nội. tr.148-151].

6. Những người trước đây từng đưa ra ý kiến tương tự với chúng tôi có lẽ là nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Chu Quang Trứ, trong mục CHÙA MỘT CỘT ông đã viết “Thực ra, chùa là một cụm kiến trúc gồm chùa Diên Hựu và Liên Hoa Đài (lâu nay thường gọi lầm là chùa Một Cột”. Ông chỉ lầm ở một điểm, đây không phải là “cụm kiến trúc” mà là một “tổng thể kiến trúc”. [Xem Hữu Ngọc (chủ biên). Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam. Nxb Thế Giới. Hà Nội. 2002. tr.162].

Xem thêm Chu Minh Khôi. Liên Hoa Đài – hồn vía Thăng Long xưa. http://giacngo.vn

7. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant.1997. Từ điển biểu tượng văn hóa thế thế giới. Nxb Đà Nẵng. tr. 811.

Đọc thêm:

 

Chùa Diên Hựu – Một Cột: Lịch sử và biểu tượng (http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=5068)

 


Nhân đọc bài này tại hạ có chat với lão đệ ntman:

[4/23/2012 4:45:47 PM] fanzung: Vụ “chùa” đó là cái “đài” thì huynh biết từ lúc Dương còn ở truồng, nhưng không có chỗ phát ngôn
[4/23/2012 4:46:00 PM] Nguyễn Thành Mãn: Đệ giờ mới biết
[4/23/2012 4:46:01 PM] fanzung: Mà cũng không biết phát ngôn hay như nó
[4/23/2012 4:46:07 PM] Nguyễn Thành Mãn: Té ra lâu nay báo chí viết sai
[4/23/2012 4:46:17 PM] Nguyễn Thành Mãn: huynh đọc đâu ra?
[4/23/2012 4:47:34 PM] fanzung: Dễ hiểu lắm mà. Như Chùa Thiên Mụ đó. Cứ nhìn vào các ảnh chụp giới thiệu lâu nay thì người ta cứ tưởng chùa là cái Phước Duyên Bảo Tháp
[4/23/2012 4:47:53 PM] Nguyễn Thành Mãn: À, đúng rồi (y)
[4/23/2012 4:48:10 PM] fanzung: Thực ra bảo tháp chiếm 1 mẩu so với khuôn viên cả chùa
[4/23/2012 4:49:20 PM] fanzung: chỉ là bộ phận kiến trúc, nhưng là kiến trúc đặc trưng nhất của Thiên Mụ
[4/23/2012 4:49:40 PM] Nguyễn Thành Mãn: Vâng
[4/23/2012 4:52:07 PM] fanzung: huynh từng có ý viết 1 bài giải thích về “chùa 1 cột”, nhưng huynh gọi nó là “Liên Hoa Bảo Tháp”. Chứ không phải “Liên Hoa đài” .
[4/23/2012 4:53:04 PM] fanzung: Tiếc thật. Dương hớt trước rồi :)
[4/23/2012 4:53:10 PM] Nguyễn Thành Mãn: Haha
[4/23/2012 4:53:18 PM] fanzung: Hậu sinh khả úy !

Nhân tiện tại hạ xin giới thiệu cái hình chùa Thiên Mụ “điển hình”, nhìn vô thì ai cũng nghĩ chùa tức là ngọn bảo tháp Phước Duyên, và chỉ có thế thôi … he he !

 

Suy nghĩ về Dịch thuật

Suy nghĩ về Dịch thuật

Cao Xuân Hạo (Dịch giả, Nhà ngôn ngữ học)

Năm 2004 có mấy cuộc hôi nghị về dịch thuật tâp hợp những chuyên gia có uy tín trong ngành này, phần lớn đều lấy ba tiêu chuẩn TÍN, ĐẠT, NHà làm căn cứ để thảo luận, trao đổi. Hình như phần lớn đều chỉ băn khoăn về chữ NHà – một nỗi băn khoăn mà chúng tôi nghĩ là hoàn toàn chính đáng, vì chữ NHà hình như chỉ thích hợp với một văn phong nhất định, và khó lòng có thể nói rằng “phàm là một bản dịch thì nhất thiết phải có cái văn phong được gọi là “NHÔ. Nếu nguyên bản không “nhã”, mà lại gồ ghề thô lỗ, thì bản dịch “nhã” chắc chắn là sẽ không thực hiện được chữ “tín”, và sẽ nảy sinh một mâu thuẫn đối kháng ngay trong nội bộ của tiêu chuẩn được đề ra.

Nhưng như thế vẫn chưa hết. Ngay cả chữ ĐẠT cũng có một nội dung rất khó hiểu, khiến ta phải tìm xem những người lấy chữ ĐẠT làm tiêu chuẩn, họ hiểu chữ TÍN như thế nào. Nếu bản dịch hoàn toàn trung thành với nguyên bản (TÍN), nhưng lại rất dở, trong khi nguyên bản là một kiệt tác của văn học thế giới, thì lẽ nào có thể nói rằng đó là một bản dịch trung thành? Người đọc bình thường chắc hẳn phải nẩy ra cái ý nghi ngờ rằng người đặt ra tiêu chuẩn quan niệm chữ TÍN theo cái nghĩa là“sát từng chữ”. Nhưng bất cứ người nào đã học qua một ngoại ngữ, dù chỉ trong buổi học đầu tiên, cũng đã thấy ngay rằng dịch sát từng chữ là cách tốt nhất để dịch sai hoàn toàn [i] .

Dĩ nhiên mỗi người có thể có một hay nhiều bí quyết riêng để dịch cho đúng và cho hay theo thẩm năng của họ… Và quan trọng hơn nữa là mỗi người có thể tự cho mình những cái quyền riêng trong cách hiểu, đánh giá và xử lý một văn bản mà mình chọn. Chúng tôi có biết một dịch giả nổi tiếng, có mấy mươi bản dịch được xuất bản nhiều lần, đánh giá một nhà văn như Lev Tolstoy là “chưa biết viết văn” và tự ban cho mình cái quyền bỏ từng đoạn dài mấy chục trang của tác giả, đồng thời tự cho mình cái quyền không hiểu tác giả muốn nói gì trong hàng trăm trang khác!

Trong bài này chúng tôi muốn tự bó hẹp trong phạm vi phiên dịch (translation) hiểu theo nghĩa hẹp, gạt ra ngoài mọi công trình sáng tạo, dù vĩ đại đến đâu. Vì vậy trước hết chúng tôi cố tìm một cách định nghĩa có cơ may được nhiều người thừa nhận nhất. Đó là cách định nghĩa của M. Fyodorov (1950): “Dịch là chuyển đạt một văn bản từ một ngôn ngữ này (nguồn) sang một ngôn ngữ khác (đích) một cách trung thành trong chừng mực có thể, cả về nội dung lẫn về hình thức.” Vậy, xét về lý tưởng, sự thay đổi duy nhất mà người dịch có quyền thực hiện là ngôn ngữ, là thứ tiếng mà nguyên bản dùng để biểu đạt những ý nghĩa mà mình muốn biểu đạt, và nhiệm vụ của anh ta chính là dùng một thứ tiếng khác để truyền đạt tất cả những cái gì đã được truyển đạt bằng thứ tiếng kia.

Vậy “những cái đã được truyền đạt” mà người dịch có bổn phận truyền đạt lại một cách trung thành ấy (chữ TÍN, và chỉ một chữ TÍN mà thôi!), là những cái gì? Và người dịch phải có những cách thức nào, phải thực hiện những thao tác nào để làm tròn cái bổn phận ấy? Dĩ nhiên, trả lời câu hỏi này không đơn giản chút nào, vì ngôn ngữ là một thực thể hết sức đa diện, khó lòng có thể phân tích thành một số khía cạnh hữu hạn. Sau đây chúng tôi chỉ mong kể ra những bình diện cơ bản nhất của một văn bản thông thường có thể làm đối tương cho công việc phiên dịch.

1. Thể loại

Một văn bản, dù muốn dù không, cũng phải thuộc một thể loại nhất định, và “tính thể loại” chính là cái mà người dịch phải truyền đạt trước tiên. Tôi đã từng đọc một chồng bản dịch chuyện cổ tích trong đó người dịch truyền đạt những nguyên bản dài từ 2 đến 12 trang thành những thiên tiểu thuyết dài từ 200 đến 500 trang, và rất tự hào vì đã chuyển được những chuyện cổ tích sơ sài buồn tẻ thành những pho tiểu thuyết ly kỳ hấp dẫn đầy những chi tiết tinh vi và những đoạn đối thoại sắc sảo cho thấy một vốn hiểu biết sâu rộng về tâm lý người đời, mà vẫn giữ được y nguyên cốt chuyện của nguyên bản. Dịch giả từ biệt tôi với một nỗi tuyệt vọng khôn xiết không phải đối với mấy ngàn trang tiểu thuyết của mình, mà đối với sự kém cỏi của tôi, người đã không đủ sức hiểu cái giá trị tuyệt vời của cái công trình mà ông đã bỏ ra bấy nhiêu công sức để thực hiện. Ba mươi năm sau, khi chúng tôi gặp lại, vẫn chưa có một nhà xuất bản nào đủ sáng suốt để công bố bộ sách của ông. Ai cũng trả lời ấp úng một câu vô nghĩa: “Hay thì hay tuyệt, nhưng… nó thế nào ấy, không thích hợp lắm”. Tôi trộm nghĩ: cái không thích hợp ở đây chính là tính thể loại.

2. Chuyển thể

Tôi không hề phản đối việc chuyển thể – như đưa lên sân khấu (kịch nói, kịch thơ, tuồng, chèo, cải lương) hay màn ảnh, chuyển tiểu thuyết văn xuôi thành trường ca có vần điệu, chuyển truyện ngắn thành ngụ ngôn, chuyển chuyện cổ tích thành vè hay thành vũ kịch v.v., v.v. Có những tác phẩm được chuyển thể thành công, có tác phẩm được chuyển thể không thành công bằng. Tất cả đều lệ thuộc vào tài năng và công sức của người thực hiện việc chuyển thể. Dù sao thì nhìn chung, qua việc chuyển thể khó lòng tránh khỏi tình trạng mất mát một cái gì đó trong nguyên tác, tuy không phải không có những trường hợp lệ ngoại quý giá, trong đó kết quả của chuyển thể vượt hẳn nguyên tác về giá trị nghệ thuật. Những thí dụ về trường hợp này, có lẽ bất kỳ bạn đọc nào cũng có thể tìm ra một cách dễ dàng. Xin nhắc lại một lần nữa là chúng tôi đang nói đến dịch thuật hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên không dám có tham vọng mở rộng phạm vi luận bàn sang những ngành lân cận.

3. Phóng tác

Rất gần gũi với chuyển thể công việc phóng tác, khi một người cầm bút thấy cần sửa đổi nguyên tác ít nhiều để cho tác phẩm thích hợp hơn với một đối tương nhất định, thường hẹp hơn cái đối tương mà tác giả hướng tới. Thường thường đó là đối tượng thiếu nhi. Làm việc này thường là một người lấy làm tiếc rằng một tác phẩm hay nào đó có phần không thích hợp với một công chúng lẽ ra có thể hiểu và thưởng thức nó nếu có ai căn cứ vào những đặc thù của lớp người mình đang muốn phục vụ mà cải biên lại chút ít, sao cho nó khớp với công chúng của mình. Nguyện vọng này hoàn toàn chính đáng, có thể thực hiện được và hơn nữa cũng rất cần thiết đối với những người còn phải chờ đợi một sự trưởng thành về trí tuệ mới có thể tiếp cận được một tác phẩm. Cũng xin nói rõ rằng công việc này chỉ có thể làm được với những tác phẩm văn học mà thôi, chứ đối với những tác phẩm nghệ thuật khác thì không ai nẩy ra cái ý phóng tác một bức tranh, một vở kịch câm hay một vũ kịch để cho nó thích hợp hơn với bất kỳ đối tượng nào. Vì một lẽ giản đơn: việc đó không thể nào làm được.

Còn như một loại tác phẩm quan trọng đối với mọi dân tộc như những bái hát ru con (thường là trích mượn từ những bài ca dao) thì công chúng chủ yếu của nó lại chính là “những người chưa đủ trưởng thành về trí tuệ”, nhưng lại không thể phóng tác được, phải hát đúng từng chữ khi ru con, với niềm hy vọng là nó sẽ được ghi lại trong ký ức thành những kỷ niệm không bao giờ phai mờ để sau này nhớ lại, con người trưởng thành sẽ coi nó như một truyền thống vĩnh hằng thiêng liêng nhất, quý giá nhất của dân tộc [ii] .

Sau khi đã nói rõ nội dung của những công việc có phần gần gũi với dịch thuật, khi bạn đọc đã có thể có được một khái niệm tương đối rõ ràng về những ranh giới khu biệt giữa dịch thuật với những công việc ấy, chúng tôi xin trình bày công việc dịch thuật như một quá trình gồm có mấy công đoạn tách biệt. Đó là một cách trình bày có tính ước định, chẳng qua để cụ thể hoá những chi tiết nhiều khi khó xác định của cái công việc không lấy gì làm đơn giản này

4. Những công đoạn của việc dịch thuật

Các tác giả của những giáo trình được đem giảng tại các khoa và bộ môn ngôn ngữ học mà chương trình có bao gồm nội dung Dịch thuật thường trình bày công việc của ngành khoa học này dưới dạng một quá trình có bốn công đoạn sau đây:

(1) Phân tích nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn (Source Language) để “hiểu” thật rõ tác giả “muốn nói” gì.

(2) Xoá cách ngôn từ hoá của nguyên bản (Deverbalisation of the text)

(3) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của nguyên bản (qua một siêu ngôn ngữ ước định)

(4) Tái ngôn từ hoá bằng ngôn ngữ đích để có được một văn bản tương đương với nguyên bản (Reverbalisation in the Target Language so that the text obtained would be equivalent to that written in the Source Language).

Dĩ nhiên, cách phân ra thành công đoạn như trên không nhất thiết phải là một quá trình gồm những giai đoạn lần lượt kế tiếp nhau theo trật tự thời gian. Mỗi người dịch có thể làm việc theo một phương thức khác nhau, kê cả những phương thức hoàn toàn mặc ẩn (implicite), thậm chí vô thức (unconscious). Nhưng, cũng như khi nói về quá trình thụ đắc (acquisition) vốn tri thức của người bản ngữ về tiếng mẹ đẻ của mình, muốn dạy cách phiên dịch không thể có cách gì ngoài cách hiển ngôn hoá (explicitating), nghĩa là nói ra thành lời một cách tỏ tường để người học nhận thức được từng chi tiết, từng giai đoạn của quá trình thụ đắc vốn tri thức cần thiết. Ta hãy xét kỹ từng công đoạn trong quá trình làm việc của người phiên dịch có tri thức hiển ngôn về quá trình này.

(1), (2) Hiểu và phi ngôn từ hoá nguyên bản (xóa hết những từ ngữ của nguyên bản)

Câu hỏi tất nhiên phải nảy sinh trong tâm trí người đọc trước hết là: tại sao lại phải xóa những từ ngữ của nguyên bản, và sau khi làm như vậy, thì trong trí nhớ của người phiên dịch phỏng còn sót lại được những gì?

Người có kinh nghiệm và kỹ năng dịch thuật [iii] sẽ đáp:

– Không ai có thể nhớ hết từ ngữ trong một lời phát biểu ở hội nghị, nếu dịch miệng. Người dịch chỉ nhớ cái nghĩa của lời phát biểu. Người dịch viết có kinh nghiệm cũng biết rằng khi hiểu một câu văn, người dịch phải quên cách biểu đạt câu ấy bằng những từ ngữ gì. Sự quên lãng này sẽ càng ngày càng trở nên tự nhiên, thậm chí tự phát. Trong tâm trí người nghe (người đọc), những từ ngữ của nguyên bản lập tức bị quên đi để nhường chỗ cái ý mà tác giả muốn truyền đạt. Có thế người nghe (người đọc) mới hiểu được cái ý ấy.

– Vậy cái ý ấy cụ thể là cái gì, khi đã quên hết cách diễn đạt nó bằng những từ ngữ vốn làm thành cái bệ đỡ vật chất của nó?

– Cái ý ấy thường được giữ lại trong ý thức của người nghe (hay người đọc) dười dạng nhữnghình ảnh về những gì đã được thuật lại bằng lời. Những hình ảnh này có thể tĩnh (tư thế, dáng vẻ) hay động (động tác hay sự thay đổi tư thế, hình dáng). Ngoài ra, những hình ảnh này lại phải được đặt trên bối cảnh của những hình ảnh đã có trong văn cảnh trước đó, rồi lại được cắt nghĩa bằng những tri thức phổ thông (ngoài ngôn ngữ học) của người nghe hay người đọc.

Những người nghe dịch miệng trong hội nghị thường kinh ngạc trước cái trí nhớ “kỳ dị” của người phiên dịch chính là vì cứ tưởng anh ta nhớ hết các từ ngữ, trong khi thật ra anh ta chỉ nhớ cáinghĩa, cái ý mà người kia muốn nói ra thôi. Người dịch viết cũng không hề làm khác, nếu anh ta đã thực sự hiểu tác giả muốn nói gì. Ở đây chỉ cần lưu ý một chút nữa để thấy cần phân biệt mấy chữ muốn nói gì với những câu hỏi về nguyên do (tại sao mà nói thế?) về động cơ (nói thế để làm gì?).

Nói tóm lại, phi ngôn từ hoá nguyên bản không hề gây trở ngại cho người dịch mà chính là tạo một điều kiện không thể thiếu để họ có thể dùng nội quan (introspection) soi sáng tâm trí mình để thoát ra ngoài những từ ngữ có thể gây nên những tạp âm (noise – hiểu theo nghĩa của lý thuyết thông tin) có hại cho hoạt động “hiểu” (comprehension) của tâm trí nếu người nghe không quên ngay đi để chỉ tập trung vào việc hiểu cho đúng tác giả muốn nói gì, muốn mình hình dung được những hình ảnh nào.

(3) Công việc tìm hiểu cái nghĩa, cái ý mà tác giả muốn nói sẽ được nhận thức một cách minh xác hơn nữa khi ta phân tích một cách hiển ngôn, bằng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ học và của ngữ dụng học (nhất là trong những hành động ngôn từ (speech acts) của tác giả và của các nhân vật, trong đó có những câu được gọi là câu ngôn hành – performative sentences)

Những bình diện của lời nói và của văn bản đều được quan tâm phân tích đến mức chi ly, để không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào.

Tuy nhiên không nên nghĩ rằng hiểu một văn bản là một quá trình làm việc công phu đòi hỏi một thời gian dài. Công việc kiểm tra và phê bình, đánh giá mới đòi hỏi như vậy, còn việc người nghe (hay người dịch) hiểu cái nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt bất chấp những lỗ hổng, những sự tỉnh lược, những chỗ không nói hết trong ngôn từ thường chỉ cần một khoảnh khắc, một nháy mắt cũng có thể được bù đắp ngay trong ý thức của người nghe (hay người dịch).

Sau đây là những nội dung ý nghĩa chứa đựng trong nguyên bản không bao giờ được truyền đạt bằng ngôn từ mà người nghe hay người dịch vẫn phục hồi được và hiểu ngay lập tức khi tiếp xúc với văn bản:

1. Tiền giả định (presupposition) . Khi gặp một người quen hỏi thăm mình bằng câu “Anh đã khoẻ chưa?”, người nghe (hay người dịch) biết ngay rằng người ấy có nghe ai đó nói rằng trước đó mình có bị bệnh. Nếu cái tiển giả định ấy đúng, anh ta có thể trả lời là ”Khoẻ rồi” hay “Chưa khoẻ”. Nhưng nếu cái tiền giả định ấy sai (tức trước đó anh ta không hề đau ốm gì), thì dù có trả lời thế nào cũng không ổn, vì cũng vô hình trung thừa nhận một tiền giả định hoàn toàn sai.

2. Hàm nghĩa từ vựng (lexical implication) . Khi một nhân vật trong nguyên bản nói “Nó sắp cưới vợ mới”, người nghe (và người dịch) biết ngay rằng nó là một người đàn ông trưởng thành từng có một đời vợ, mặc dầu trong câu không có một từ nào nói rõ giới tính của nó (nó dĩ nhiên có thể là một đứa con gái) và tình trạng hôn nhân trước đó của nó. Tuy vậy người nghe (và người dịch) suy diễn được ngay những điều này từ những từ khác có mặt trong câu như cưới vợ và mới.

3. Hàm ngôn hội thoại (conversational implicature) . Ta thấy có một hàm ngôn hội thoại khi người nghe (hay người dịch) có thể căn cứ vào một ý trong cuộc hội thoại mà suy ra một ý khác không nói ra nhưng vẫn có mặt trong ý thức người nghe (hay người dịch). Chẳng hạn khi nghe ai nói “Hôm nay nó không say”, người nghe hiểu ngay là có những hôm khác nó say.

Nói chung, ta thấy rằng một nguyên bản bất kỳ không nhất thiết phải nói hết nội dung của nó ra bằng từ ngữ, vì có những ý có thể được người nghe suy ra một cách dễ dàng ngay từ sự vắng mặt của những từ ngữ ấy.

Về những Đơn vị Ý nghĩa

Khi nghe một lời phát biểu ở hội nghị cũng như khi đọc một câu văn cần dịch, người nghe hay người đọc đang muốn dịch câu ấy thường bất giác chia câu ấy ra thành từng “cụm từ “ để lần lượt hiểu cho được những gì vừa nghe hay vừa đọc xong. Những “cụm từ” này không trùng với những đơn vị cấu trúc mà nhà ngôn ngữ học dùng những thủ pháp phân tích nghiêm ngặt để tách ra khỏi ngữ lưu (những ngữ đoạn, những từ đơn, những từ ghép, những thành ngữ, v.v.). Lederer gọi đó là những Đơn vị Ý nghĩa (Unités de sens).

Người nghe hay người dịch lần lượt hiểu và quên ngay những từ ngữ vừa nghe hay vừa đọc được không phải theo một kỹ năng khoa học, có cơ sở lý luận, mà theo bản năng, trong quá trình nghe hay đọc, hễ hiểu ra được khúc nào là ghi nhận ý nghĩa (và quên ngay từ ngữ) của khúc ấy.

Những đơn vị ý nghĩa này nối tiếp theo nhau (và có những chỗ chồng chéo lên nhau) trong tâm trí người nghe để cuối cùng làm thành cái ý nghĩa chung của câu văn và đoạn văn, rồi hội nhập vào những đơn vị rộng lớn hơn nữa,, những ý nghĩa mạch lạc hơn, và biến thành những kỷ niệm, những tri thức phi ngôn từ hoá trong tâm trí người nghe hay người dịch.

Kích thước của những đơn vị ý nghĩa có thể ở mỗi người một khác. Có người phải chờ cho hết một đoạn dài mới tổng kết được ý nghĩa của nó; có người chỉ cần nghe một hai chữ đầu đã hiểu cả đoạn.

(4) Tái ngôn từ hóa

Công đoạn cuối cùng của việc dịch thuật, – và cũng chính là mục đích tột cùng của nó – là việc tái ngôn từ hoá những gì người đọc đã hiểu được khi đọc nguyên bản, tức những ý và nghĩa mà tác giả muốn truyển đạt bằng cách sử dụng ngôn ngữ đích – thứ tiếng mà người dịch chọn làm phương tiện biểu đạt cho bản dịch của mình..

Như đã nói trên kia, một bản dịch xứng đáng với danh từ này phải có giá trị tương đương (equivalent) với nguyên bản về mọi phương diện, nội dung cũng như hình thức. Vậy muốn bản dịch có giá trị tương đương này, người dịch phải làm những gì?

Tính tương đương của một bản dịch so với nguyên bản có thể phân tích thành hai dình diện: bình diện nhận thức (équivalence cognitive) và bình diện xúc cảm (équivalence affective)

1. Tính tương đương về nhận thức

Tính tương đương trên bình diện nhận thức là kết quả của việc sử dụng những yếu tố phụ trợ về khái niệm mà người dịch đưa vào bản dịch để bổ sung cho ngữ nghĩa của nguyên bản. Việc bổ sung này là cho bản dịch khác với nguyên bản về hình thức. Mức độ khác nhau giữa nguyên bản và bản dịch tùy thuộc vào sự khác nhau về loại hình giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.

Cái khoảng cách này càng nhỏ thì càng có nhiều sự tương ứng (correspondences) về hình thức biểu đạt. Vì vậy giữa hai thứ tiếng cùng loại hình như tiếng Hán và tiếng Việt, đều là ngôn ngữ đơn lập (isolating) và phân tích tính (analytic) đến triệt để, đều không dùng đến hình thái học [iv], chỉ còn khác nhau ở trật tự từ ngữ trong ngữ danh từ (phụ trước chính sau), trong khi ngữ vị từ thì vẫn theo trật tự chính trước phụ sau, có thể tìm thấy khá nhiểu sự tương ứng về ngữ pháp và từ vựng trong cách biểu đạt. Huống chi trong tiếng Việt có đến từ 70% đến 80% từ ngữ gốc Hán, trong đó có những ngữ đoạn có cấu trúc chặt và thường có chức năng định danh, gọi là “từ Hán-Việt” [v] .

Còn giữa tiếng Việt và các thứ tiếng châu Âu, vốn thuộc loại hình khuất chiết hay biến hình (inflectional) và tính tổng hợp (synthetic) rất cao, cái khoảng cách ấy rất lớn, cho nên ít khi có thể tìm thấy những sự tương ứng, nhất là những sự tương ứng một đối một, giữa hai bên. Trong việc dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, công đoạn phi ngôn từ hoá lại càng quan trọng và cần thiết. Khi đã hiểu được cái ý nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt, thà xoá hết những từ ngữ của nguỵên bản tiếng Âu châu còn hơn mải loay hoay với những từ ngữ ấy mà sao lãng việc tìm cho ra cách biểu đạt cho thật đúng và thật hay những ý nghĩ và hình tượng mà tác giả muốn truyền đạt.

Tôi còn nhớ mãi một câu văn trong sách “kinh điển” do một nhà xuất bản lớn của Thủ đô ấn hành vào những năm 50 của thế kỷ vừa qua:

Cứ cái đà này, những con người rồi sẽ đến nước phải gặm cỏ nội như những con cừu cái.

Trong nguyên bản tiếng Pháp (xuất xứ của bản dịch vừa dẫn), ta thấy:

De ce train-là, les hommes en viendront à brouter l’herbe des prés comme les brebis.

Tôi hoàn toàn thông cảm với dịch giả trong sự nỗ lực dịch thật sát nguyên bản sách kinh điển, vốn được coi là một thứ thần văn mà nếu dịch sai dù chỉ một chữ hay một cái dấu chấm câu cũng có thể đề lại cho hậu thế nhũng hậu quả khôn lường. Nếu dịch giả không dịch như thế, thì ban biên tập chắc chắn sẽ sửa lại cho đúng như thế.

Nhưng đứng trên quan điểm của nghề dịch thuật, không thể không nói ra những nhận xét sau đây:

(a). dịch giả dịch sát những từ ngữ, chứ không truyền đạt cái ý mà tác giả muốn nói;

(b). dịch giả không biết tiếng Việt chuẩn khác tiếng Pháp như thế nào. Chẳng hạn, les hommeskhông tương ứng với những con người, mà với con người hay người ta; khi nói về động vật, tiếng Việt không có nhu cầu phải nói rõ số và giống như tiếng Pháp, cho nên viết ăn cỏ như cừu là đủ và đúng. Vả lại chẳng lẽ chỉ có cừu cái mời ăn cỏ, còn cừu đực thì không?

Dù câu dẫn trên đây có là một câu thần chú, trong đó mỗi chữ đều linh thiêng và có giá trị sinh tử đối với người khấn nguyện, thì cách dịch như thế vẫn là sai vì dùng ngôn ngữ đích không đúng chuẩn và do đó không tương đương với nguyên bản, ít nhất là về phương diện ngữ pháp và phong cách, vì có quá nhiều nét thừa dư (redundancies) nếu lấy nguyên bản tiếng Pháp làm chuẩn để so sánh.

Giáo sư phật học Minh Chi nhiêu lần than phiền rằng những bản dịch kinh Phật đọc lên không ai hiểu được chút gì, nhưng ông đã đề nghị dịch lại mấy lần mà Giáo hội không chịu, vì Kinh Phật “chỉ cần tụng niệm chứ không cần hiểu”.

2. Tính tương đương về xúc cảm

Không thể có một lý thuyết chung để xác định mức độ tương đương về tính xúc cảm giữa một bản dịch với nguyên bản, vì trên bình diện này sự khác nhau giữa các ngôn ngữ có thể nói là muôn hình vạn trạng. Mỗi ngôn ngữ có một cách riêng để kết hợp hai bình diện nhận thức và xúc cảm trong những thủ pháp thường gọi là tu từ học, hay phong cách học, hay hùng biện (rhetorics). Bình diện xúc cảm cũng có mặt trong cách dùng những thành ngữ, những tục ngữ, những lối nói mà truyền thống lâu đời của văn học dân gian đã nhuộm những màu sắc xúc cảm không mấy khi có thể phân tích và xác định bằng những thuật ngữ khoa học.

Tính tương đương về hai bình diện xúc cảm và nhận thức thường quyện vào nhau một cách hết sức nhuần nhuyễn trên khắc các cấp độ khác nhau của hệ tôn ti giữa các đơn vị ngôn ngữ.

Sau đây là cách trình bày của Werner Koller (1992) về những chuẩn tắc của tính tương đương trong dịch thuật:

* bản dịch phải chuyển đạt đủ những thông tin của nguyên bản về hiện thực ở bên ngoài ngôn ngữ (denotative Äquivalence)

* nó phải tôn trọng phong cách của nguyên bản: âm vực của ngôn ngữ, biệt ngữ xã hội và địa phương của nguyên bản (konnotative Äquivalence)

* nó phải phù hợp với thể loại chuẩn của nguyên bản (textnormative Äquivalence)

* nó phải được thích nghi với vốn tri thức của độc giả để cho độc giả hiểu được. Đó là một sự tương đương về dụng pháp (pragmatische Äquivalence)

* cuối cùng, bản dịch phải tạo ra được một hiệu quả thẩm mỹ tương đương với nguyên bản (formal-ästhetische Äquivalence).

Ta có thể tin chắc rằng những chuẩn tắc trên đây của W. Koller đề phải được tính đến, một cách có ý thức hay chỉ trong mẫn cảm trực giác, khi đánh giá một bản dịch. Tất nhiên, những chuẩn tắc này không phải là một phương pháp dịch thuật có thể dùng để soạn sách giáo khoa đào tạo những người phiên dịch. Nhưng nó có thể cho phép người ta kiểm nghiệm lại xem thử một bản dịch nào đấy có thiếu sót điểm nào trong việc đi tìm sự tương đồng hay không.

Ngay trong cách trình bày những chuấn tắc của mình về tính tương đồng của bản dịch so với nguyên bản, W. Koller không tránh khỏi việc so sánh giữa từ ngữ của bản dịch với từ ngữ của nguyên bản. Điều này có phần mâu thuẫn với nguyên lý chung của ngành dịch thuật: dịch không phải là thay thế những từ ngữ của nguyên bản bằng những từ ngữ của một thứ tiếng khác, mà hiểu lấy ý nghĩa của nguyên tác bằng cách xoá sạch từ ngữ của nó đi để tạo nên một ý nghĩa tương đương bằng những từ ngữ của một thứ tiếng khác.

Nhưng kiểm tra và đánh giá một bản dịch lại là một công việc khác.

*

Những dòng trên đây của chúng tôi không có tham vọng gì hơn là phác thảo một vài nguyên lý cơ bản của công việc dịch thuât xét về lý thuyết, chủ yếu dựa trên một cuốn sách tương đối mới (so với thuyết TÍN-ĐẠT-NHÃ của hai thế kỷ trước). Chúng tôi biết rằng bài này chưa đáp ứng được bao nhiêu những nhu cầu lý thuyết và thực tiễn của các bạn đồng nghiệp. Tôi chỉ mong sao những người có chú ý đến dịch thuật và có trách nhiệm trong ngành xuất bản quan tâm ít nhiều đến việc cho dịch và xuất bản một vài công trình có thể giúp cho những người làm việc trong ngành này có tài liệu để trau dồi tri thức về nghề nghiệp.

—-

[i] Trong số những chuyên gia nổi tiếng về phiên dịch có PGS. Phan Ngọc đã hàng trăm lần căn dặn các môn đệ rằng “muốn đổi gì thì đổi, chứ trât tự từ ngữ thì nhất thiết phải giữ y nguyên”.

[ii] Một điều đáng tiếc là những bài ca dao thường dùng khi ru con rất ít được học trong các giáo trình tiếng Việt, vì nó rất khác tiếng Tây, và do đó “chẳng có giá trị gì về ngữ pháp”.(ngay sách giáo khoa dạy tiếng cũng rât ít khi dẫn ca dao, vì câu ca dao tường cải chính một cách hùng hồn những quy tắc ngữ pháp tiếng Tây mà sách giáo khoa đem dạy cho người Việt).

[iii] Những tài liệu chủ yếu mà chúng tôi sử dụng trong bài này gồm có những đầu đề sau đây: Lederer M. La traduction aujourd’hui. Le modèle interprétatif. Hachette 1994; Seleskovich D.Traduire, de l’expérience au concept. Études de Linguistique Appliquée 24. Didier 1986. Sperber D. & Wilson D. Relevance, Communication and Cognition. Blackwell 1986. Sartre J. P. Qu’est-que la littérature. Gallimard 1985. Steiner G. After Babel.Aspects of Language and Translation. Oxford U.P. 1978; Delisle J. L’analyse du discours comme méthode de traduction. P.U.Ottawa 1984; Koller, W.Einführung in die Übersetzungwissenschaft. Heidelberg. 1992.

[iv] Đây là nói đến tiếng Hán”cổ điển” (thời Đường–Tống), vì tiếng Hán hiện đại đã có những yếu tố khá rõ của loại hình chắp dính (agglutinating languages) với sự xuất hiện hàng loạt của những phụ tố (affixes), do quá trình ngữ pháp hoá (grammaticalisation) của những “thực từ” vốn mang nghĩa từ vựng (lexical meaning) như danh từ (nouns) và vị từ (verbs), nay đã mất nghĩa từ vựng (“hư hoá”) mà chuyển thành những công cụ ngữ pháp (những phụ tố như tử, nhi, nhĩ, tố, đích, v,v,).

[v] Danh ngữ này, thường được coi như một vế đối lập với “từ thuần Việt”, đã gây nên nhiều sự ngộ nhận không đáng có.. Có nhiều người tưởng rằng “từ Hán-Việt” là những từ ngữ được ”vay mượn” từ nước ngoàiï rồi đem du nhập vào tiếng Việt, cũng giống như những từ ngữ tiếng Pháp, tiếng Anh hay Quảng Đông, Phúc Kiến, Nhật Bản, Hàn Quốc, đổng thời tưởng rằng từ ”thuần Việt” là những từ gốc Việt có từ thời khai thiên lập địa. Thật ra từ “thuần Việt” hầu hết là những từ gốc Thái, gốc Mường hay gốc Môn-Khmer. Trong khi đó thì từ Hán-Việt là một trong những cội nguồn quan trọng và cổ xưa nhất của tiếng Việt, nằm trong lớp hạ tằng của tiếng “thuần Việt”,chứ tuyệt nhên không phải là những từ mới vay mượn từ tiếng nước ngoài.

Tôn vinh Nhã nhạc tại Festival Huế 2012

Tại Festival Huế 2012, Nhã nhạc Huế tiếp tục được tôn vinh qua lễ hội “Ngự thuyền khám phá sông Hương” và “Đêm Hoàng Cung” nhằm đưa bộ môn nghệ thuật chỉ phục vụ trong cung vua xưa đến rộng rãi với công chúng. Các hoạt động của “Đêm Hoàng Cung” sẽ được bố trí trên 3 trục chính: trục giữa (từ Ngọ Môn đến nền điện Kiến Trung), trục trái (từ Thế Miếu đến cung Trường Sanh) và trục phải (từ phủ Nội Vụ đến vườn Cơ Hạ), với các trò chơi cung đình, chương trình Dạ nhạc tiệc cung đình, Đêm Phương Đông, và các vũ khúc cung đình…

Biểu diễn nhã nhạc tại Festival Huế
Biểu diễn nhã nhạc tại Festival Huế

Ông Phan Thanh Hải, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế cho biết: Từ năm 2003, khi Nhã nhạc cung đình Huế (Âm nhạc cung đình Việt Nam) được UNESCO tôn vinh là Di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại đến nay, Trung tâm đã sưu tầm, bảo tồn và dàn dựng được hơn 30 nhạc chương trong các lễ tế, 40 nhạc khúc được diễn tấu với nhiều loại tiểu nhạc, đại nhạc, gần 20 điệu múa cung đình đã được phục hồi, dựng được 3 vở tuồng cổ đáp ứng cho các lễ hội và giao lưu văn hoá. Trung tâm tổ chức tốt công tác truyền nghề từ các nghệ nhân nhã nhạc Huế còn lại trên đất Cố đô, Thừa Thiên – Huế; tổ chức 4 lớp đào tạo diễn viên với nhiều chương trình như Nhã nhạc, tuồng và múa cung đình…bổ sung cho Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế.

Bên cạnh đó, Trung tâm cũng tiến hành nhiều cuộc điền dã ở thành phố Huế và các vùng phụ cận, gặp gỡ, tiếp xúc và trò chuyện với nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ, những người vốn trước đây đã có thời gian phục vụ và làm việc trong cung dưới thời các vua cuối cùng của triều Nguyễn. Nhiều tư liệu quý về các loại hình Nhã nhạc, tuồng và múa cung đình đã được thu thập, trên cơ sở đó nhóm nghiên cứu đã tập hợp, phân loại và xây dựng thành bộ hồ sơ khoa học. Đến thời điểm hiện tại, bộ hồ sơ khoa học này đã thu được 250 trang viết, giới thiệu về sự nghiệp của nghệ nhân, nghệ sĩ và ký âm các bài bản do họ thể hiện, 22 băng ghi âm, 45 đĩa DVD với nội dung ghi lại các kỹ thuật trình tấu, kỹ năng nghề nghiệp của nghệ nhân, nghệ sĩ thuộc bộ môn Nhã nhạc cung đình Huế.

Tỉnh Thừa Thiên – Huế đang tập trung thực hiện 10 biện pháp trước mắt để bảo tồn Nhã nhạc cung đình Huế (Âm nhạc cung đình Việt Nam) đó là: nghiên cứu xây dựng Trung tâm nghiên cứu Văn hoá phi vật thể vùng Huế; củng cố và phát triển về cơ sở vật chất và diễn viên cho Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế để thành trung tâm của các chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống Cung đình ở Việt Nam; tiến tới tổ chức định kỳ các chương trình biểu diễn giao lưu nghệ thuật quốc tế giữa Nhã nhạc Cung đình Huế với các nghệ thuật biểu diễn Cung đình của một số nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản.

Trước mắt, tỉnh Thừa Thiên – Huế tiếp tục cập nhật và bổ sung thông tin, dữ liệu về các nghệ nhân, các nhân chứng của Nhã nhạc; thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về giá trị lịch sử và nghệ thuật, các hình thức diễn tấu, các bài bản hiện còn và đang bị thất lạc; mở rộng nghiên cứu về các lễ hội cung đình của triều Nguyễn; tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác trong nghiên cứu tư liệu và công nghệ chế tác nhạc cụ truyền thống; quảng bá và cung cấp thông tin cho cộng đồng; chuẩn hoá về chương trình biểu diễn Nhã nhạc và múa cung đình, về trang phục và phong cách biểu diễn…

Theo Baotintuc.vn