huge boobs pictures hd. 3gp desi glamcore perfect goddesses in oral.

https://eporner.monster destiny blonde has a sweet teen pussy.

Sử địa

Thử lọc bỏ các yếu tố hoang đường trong truyền thuyết về Sơn tinh-Thủy tinh

(Bài gốc trên FB group ở link này, tác giả copy về blog cá nhân để lưu trữ)
Ngày 09/12/2024.
===
Quan điểm của tôi đối với các truyền thuyết là phải biết lọc bỏ các yếu tố hoang đường huyễn hoặc để tìm ra các sự thực lịch sử có thể còn ẩn dấu trong (một số tình tiết của) truyền thuyết.

Nhưng nói thế vẫn chỉ là lý thuyết xuông mà thôi … Nên bây giờ tôi xin lấy một ví dụ cụ thể là truyện Sơn Tinh Thủy Tinh tức Truyện thần núi Tản viên Trong Lĩnh Nam Chích quái, ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho đây là chuyện quái đản.
Tôi sử dụng bản dịch của Đinh Gia Khánh-Nguyễn Ngọc San, copy trích lại từ trang https://thuviensach.vn/pdf/viewer.php?id=2ebd5c

LinhNamChichQuai

Các đoạn là thần thánh hóa hoang đường thì tôi gạch ngang và cho chữ nghiêng, còn các thông tin có vẻ vô lý thì chỉ cho chữ nghiêng:
“… vua Hùng Vương thứ 18 đến ở đất Việt Trì, Châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên là Mỵ Nương (cháu gái 27 đời của Thần Nông) có sắc đẹp; Thục Vương Phán cầu hôn, nhà vua không bằng lòng, muốn chọn rể hiền. Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người, một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh đến để cầu hôn
Hùng Vương truyền tỉ thí pháp thuật. Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, ra vào trong đá không có gì trở ngại. Thủy Tinh lấy nước phun lên không biến thành mây mưa.
Vua nói “Hai vị đều có phép thần thông, nhưng ta chỉ có một con gái, vậy ai mang sính lễ tới trước, ta khắc gả cho”. Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang ngọc quý, vàng bạc sơn cầm, dã thú… các lễ vật đến tiến, vua y cho. Thủy Tinh đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận đem loài thủy tộc định đánh để cướp lại.
Vương lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện Từ Liêm. Thủy Tinh bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở ngách sông Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa Lâu, Cổ Hào, Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng lớn để mở lối đi cho quân thủy tộc. Thường làm mưa gió mịt mù, dâng nước lên đánh Vương. Dân ở chân núi thấy thế bèn cắm một hàng rào thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu viện. Thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn, thủy tộc chết biến thành thây ba ba thuồng luồng trôi tắc cả khu sông. Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng tám vẫn thường như vậy. Dân vùng chân núi hay bị gió to nước lớn, lúa má thiệt hại cả. Người đời tương truyền rằng đó là Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau lấy My Nương. Đại Vương được bí quyết trường sinh của thần tiên nên rất hiển linh, đó là vị đệ nhất phúc thần của nước Đại Việt vậy”
====
Sau khi lọc bỏ các yếu tố hoang đường vô lý thì chúng ta còn đoạn văn sau :
“… vua Hùng Vương thứ 18 đến ở đất Việt Trì, Châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên là Mỵ Nương có sắc đẹp; Thục Vương Phán cầu hôn, nhà vua không bằng lòng, muốn chọn rể hiền. Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người, một người xưng là Sơn, một người xưng là Thủy đến để cầu hôn …
Vua nói: “ …ta chỉ có một con gái, vậy ai mang sính lễ tới trước, ta khắc gả cho”.
Sáng hôm sau, Sơn mang ngọc quý, vàng bạc sơn cầm, dã thú… các lễ vật đến tiến, vua y cho. Thủy đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận … đánh để cướp lại.
Vương lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện Từ Liêm. Thủy bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở ngách sông Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa Lâu, Cổ Hào, Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng lớn…. Dân ở chân núi thấy thế bèn cắm một hàng rào thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu viện. Thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn… Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng tám vẫn thường như vậy. Dân vùng chân núi hay bị gió to nước lớn, lúa má thiệt hại cả…”
===
Không có gì đảm bảo là sau khi lọc các phần hoang đường thì phần còn lại đều đúng, nhưng chỉ cần có một vài thông tin trong đó đúng thì cũng có giá trị rồi… Tôi thấy đoạn quan trọng có yếu tố hiện thực nhất trong thông tin trên là “lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện Từ Liêm. Thủy (Tinh) bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở ngách sông Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa Lâu, Cổ Hào, Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng lớn
===

Xin các nhà địa chất học và khảo cổ học cho ý kiến là có thể dùng phương pháp khoa học nào để xác định dải sông Tiểu Hoàng Giang và ngách sông Tiểu Tích Giang có dấu vết đào nhân tạo không ? hoặc xác định là dòng chảy hai sông đó đã hình thành do một sự kiện lụt lội ở thời đại nào đó ?

Theo tôi nghĩ phe “Thủy Tinh” không cần đào mới toàn bộ 2 sông đó, mà do thời xưa đồng bằng Bắc bộ còn thấp, phần lớn diện tích là ao hồ, chỉ cần thuận theo thế đất, đào phá một số đoạn gò hay vồng đất cao nối các vùng hồ đầm là có thể tạo một dòng chảy mới dẫn nước lụt được … không cần phải phép thuật thần tiên quỷ quái gì cả …
Mà cũng không chắc là hai sông đó được đào thời Hùng Vương, có thể rất muộn về sau mà người “bịa chuyện” gán vào thời Hùng Vương cho có vẻ thực tế. Nhưng dù thế nào thì những người làm khoa học vẫn nên xem xét điều đó một cách nghiêm túc, chứ nếu đơn giản phán là chuyện bịa đặt rồi phủi tay thì có thể coi là cách làm việc khoa học không ?
====

* Ghi chú thêm :
1. Khảo trên bản đồ Google thì Hoàng Giang là con sông chạy ngang thành Cổ Loa, gần đó cũng có địa danh Lý Nhân. Việc nhóm Thủy tinh mở (đào) nhánh sông tiểu Hoàng Giang ra sông Hát có thể chính là ra sông Hồng đoạn phía trên vùng Từ Liêm, lý do là vì dòng chảy chính của sông Hồng thời xưa là sông Hát, nên đoạn sông Hồng phía trên Từ liêm (nơi sông Hát nối vào sông Hồng) cho đến tận Bạch Hạc khi đó được tính là sông Hát (!), từ ngã ba Bạch Hạc có thể rẽ vào sông Đà để đánh vào phía sau núi Tản Viên như truyền thuyết viết được.
2. Kết hợp các thần tích về thần núi Tản Viên (tức Sơn Tinh, có thần tích ghi tên là Nguyễn Tuấn), không nói gì chuyện đánh nhau với Thủy Tinh mà chỉ ghi việc giúp vua Hùng đánh lại nhóm An Dương Vương Thục Phán, thì có khả năng nhóm Thủy Tinh chính là nhóm An Dương Vương, khi đó định cư ở vùng phía bắc sông Hồng, trung tâm là Cổ Loa, đối diện với Hà Nội ở bờ Nam sông Hồng.
3. Vùng Cổ Loa hình như không có dấu tích gì của nhóm Tày-Nùng cả, việc gán cho An Dương Vương là dân gốc Tày-Nùng cần xem xét lại, vì người Thục vốn ở vùng Thành Đô, là một nhóm phi Hán-Tạng, nhưng cũng không phải Tày-Nùng, dữ liệu di truyền ADN của dân “Hán” ở Thành Đô hiện nay có tỉ lệ haplogroup M88 khá cao, mà M88 là nhóm ADN đặc thù của người Kinh.

Thần Nông, Nghiêu, Thuấn đều là dân man di ?

Tóm lược :
Bài này có một phát hiện quan trọng: vua Thuấn là người Đông Di, tức là dân “man di” chứ không phải người Hoa Hạ.
Thông tin này có nhiều hệ quả ghê gớm. Như sách “Sử ký” nói vua Thuấn nam vỗ yên Giao Chỉ, các tài liệu Trung Quốc hay nhắc đi nhắc lại điều đó, hàm ý rằng Giao Chỉ (tức Việt Nam thời cổ) thời xưa đã là đất thuộc TQ, chịu sự “giáo hóa” của người Hoa Hạ … nhưng giờ nếu không hiểu lộn ngược lại thì cũng phải xem xét lại cách suy diễn đó.
Thêm nữa khi khảo thêm các cứ liệu ngôn ngữ và di truyền ADN thì có khả năng từ Thần Nông tới Nghiêu, Thuấn cũng đều là dân “man di”, cũng không phải người Hoa Hạ … gay go thật :)

Xem bài trên FB ở link :
https://www.facebook.com/share/p/DHrE1Q1nKitAa6c4/?mibextid=oFDknk

Do bài trên FB  dễ bị trôi đi  nên xin copy về blog cá nhân này (có chỉnh sửa):

Hôm nay tình cờ đọc lại sách Mạnh Tử thấy có câu này, nếu phân tích kỹ sẽ thấy nhiều điều để nói, (Theo Khâm Định Tứ khố toàn thư, Mạnh Tử Quyển 3-4, trang 91) :
“孟子曰:舜生於諸馮遷於負夏卒於鳴條東夷之人也 – Mạnh Tử viết: Thuấn sinh ư Chư Bằng thiên ư Phụ Hạ tốt ư Minh Điều, Đông Di chi nhân dã “. (Mạnh Tử nói rằng vua Thuấn sinh ở Chư Bằng, thiên di tới Phụ Hạ chết ở Minh Điều, là người Đông Di vậy).
- Chư Phùng 諸馮 đọc theo cổ âm là Chư Bằng là vùng đất ở Sơn Đông, Trung Quốc : https://baike.baidu.hk/item/%E8%AB%B8%E9%A6%AE/9292151
- Mà cụ Bình Nguyên Lộc căn cứ các dữ liệu nghiên cứu chỉ số xương sọ thì viết rằng nhóm Đông Di ở vùng Hoa Đông, cụ thể là Sơn Đông cổ xưa vốn là người Việt thuần chủng.
- Tôi từng đưa lên nhóm này thông tin ở Sử ký sách ẩn của Tư Mã Trinh nói Viêm Đế dòng Thần Nông Thị ban đầu định đô ở đất Trần, sau dời về Khúc Phụ (kinh đô nước Lỗ thời Chu), như vậy truyền thuyết của người Việt nhận là dòng dõi Thần Nông có cơ sở, vì Khúc Phụ ở Sơn Đông vốn là vùng đất Đông Di, nhóm Thần Nông phải khác với nhóm Hoa Hạ gốc Hoàng Hà.
- Hãy để ý các tên Thần Nông, Đế Đồi, Đế Thừa, Đế Minh … (Dòng Thần Nông), cho đến Đế Nghiêu, Đế Thuấn đều theo cú pháp thuận như tiếng Việt (chữ Đế đặt trước) khác với tên Hoàng Đế của nhóm Hoa Hạ (chữ Đế đặt sau), như vậy việc các “đế” này là người Đông Di khác với Hoa Hạ là có cơ sở về mặt ngôn ngữ .
- Lại xét, Sử Ký của Tư Mã Thiên nguyên gốc không có Tam Hoàng, mà chỉ bắt đầu từ Hoàng Đế mà thôi, việc đưa các “đế” của các nhóm Bách Việt hay Đông Di vào chính sử TQ có lẽ bắt đầu diễn ra từ thời Hán, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất TQ và các nhóm Bách Việt ở Hoa Nam đã Hán hóa, hòa nhập vào xã hội TQ, còn vùng Hoa Đông (nhóm Đông Di) thì đã Hán hóa sớm hơn có lẽ từ giữa đời Chu ?

Xin xem ảnh, mấy chữ “Đông Di chi nhân dã” có gạch đỏ.
VuaThuanLaNguoiDongDi

 

Ảnh chụp trang sách của Bình Nguyên Lộc “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”, trong đó dòng nhận định “Hoa Đông (gốc Đông Di tức Việt thuần chủng)” :
SachBinhNguyenLoc


Bổ sung:

1- Theo khảo chú ở trang đã dẫn trên về thôn Chư Bằng ở huyện Chư Thành, Sơn Đông https://baike.baidu.hk/item/%E8%AB%B8%E9%A6%AE/9292151 có viết : “清代學者焦循在《孟子正義》認為也在此地,雲:“今青州府有諸城縣,大海環其東北,説者以為即《春秋》書‘城諸’者”. Tạm dịch: Tiêu Tuần, một học giả thời nhà Thanh, trong “Mạnh Tử Chính Nghĩa” cho rằng: “Phủ Thanh Châu ngày nay có huyện Chư Thành, biển lớn bao quanh ở phía đông bắc. Người nói cho rằng đó là “Thành Chư” được viết trong kinh “Xuân Thu”.
Chịu khó phân tích thông tin này thì phát hiện ra cấu trúc tên gọi Thành Chư thời kinh Xuân Thu (Tây Chu) đảo ngược so với tên Chư Thành hiện nay, nhưng lại đúng cú pháp tiếng Việt (!!!)
Đây là thông tin khiến tôi đưa ra ý kiến cho rằng nhóm Đông Di đã Hán hóa về ngôn ngữ từ giữa đời Chu (ngoài ra tôi còn một số dữ liệu khác, từ từ sẽ đưa lên )

2- Khảo thêm về chữ Chư trong tên Chư Bằng, quê sinh của Đế Thuấn.

- Thôn Chư Bằng ở huyện Chư Thành, thời Xuân Thu có tên là Thành Chư; cú pháp ngược với Hán Tạng ngữ mà lại thuận với tiếng Việt (và cả Thái-Kadai)
- Nếu Đế Thuấn là dân Đông Di thì có khả năng Chư là từ gốc Việt, vậy phải tìm ý nghĩa của nó trong tiếng Việt chứ không phải Hán Tạng ngữ.
- Xét tên nhân vật trứ danh thời Tam Quốc (mạt Hán) là Chư Cát Lượng 諸葛亮, tiếng Việt đọc là Gia Cát Lượng … thì cổ âm của Chư có thể là Gia.
- Mà gia gia ở Hán ngữ tức là cha (bố) ở tiếng Việt
- Lại xét, phục nguyên thượng cổ âm của chữ Chư 諸 theo nhà ngôn ngữ học W.Baxter là *tja , âm này có thể chuyển hóa ra hai âm là tía (là cha theo giọng Nam bộ, có thuyết cho là do ảnh hưởng của tiếng Mân Việt), và ja tức cha trong tiếng Việt chuẩn ngày nay (xin so sánh tên Java, người Việt gọi là Chà Và).
- Như vậy tên Thành Chư thời Xuân Thu tức là Thành Cha theo tiếng Việt. Cách đặt tên này khá quen thuộc trong tiếng Việt, tương đương tên Cổ Loa tức Chạ Chủ theo kiến giải của GS Trần Trí Dõi, hay tên Làng Cả, kinh đô của nước Văn Lang thời cuối Hùng Vương theo nhiều thần tích và ngọc phả…
* Tóm lại, có khả năng chư=cha ? (Xin nói rõ đây là một giả thuyết có thể của tác giả, không phải tiên đề hay định lý này nọ bắt người đọc phải chấp nhận )

 

Phép viết sử “Truyền nghi truyền tín” nghĩa là sao ?


Bài tựa sách Sài Sơn Thực Lục do sơn tăng Như Tùng trú trì chùa Thầy đứng in khoảng 1 thế kỷ trước viết: “Truyền nghi truyền tín. Sử pháp dã- Truyền nghi và truyền tín, đó là phép viết sử “ (xem hình các chữ khoanh đỏ ở cột 7, 8 hình 1).

Câu đó xuất xứ từ thành ngữ chữ Hán “信以傳信,疑以傳疑 – Tín dĩ truyền tín, nghi dĩ truyền nghi”, có thể xem chú giải ở trang baidu : https://baike.baidu.hk/item/信以傳信,疑以傳疑/2357968″
Thành ngữ đó khi nói về phép viết sử có thể hiểu đại khái như sau:
Phép viết sử phải trung thực. khách quan, chuyện “tín” ghi chép đã đành, mà chỗ còn nghi vấn cũng cứ chép lại đúng như sách xưa, không được bịa thêm hay cắt bỏ (che dấu) chi cả.

Ví như chuyện Hồng Bàng thị tức đời Hùng Vương trong Đại Việt sử ký toàn thư, sử quan Ngô Sĩ Liên trong phần bình luận truyện Sơn Tinh Thủy Tinh đã chú rõ đó là chuyện “nghi”  (xem hình 2 các chữ khoanh đỏ ở cột 4), nhưng nghi thì cứ truyền nghi, nên cứ chép đúng theo sách sử đời trước mà thôi.
Nguyên văn lời Ngô Sĩ Liên : 若山精水精之事亦甚恠誕信書不如無書姑述其舊以傳疑焉 Nhược Sơn tinh Thuỷ tinh chi sự diệc thậm quái đản, tín thư bất như vô thư, cô thuật kì cựu dĩ truyền nghi yên. (Còn như việc Sơn Tinh, Thủy Tinh thì rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi)
=>Câu này cho thấy Ngô Sĩ Liên chép từ sách người xưa truyền lại chứ không phải là người bịa đặt ra chuyện. Ông vẫn biết rõ đó là truyện quái đản, cả chi tiết 18 đời Hùng Vương dài đến hơn hai nghìn năm đến đứa trẻ con cũng biết là vô lý nhưng ông vẫn ghi vào chính sử, vì câu đó là của sách sử đời trước truyền lại. nếu che dấu đi để “làm đẹp” cho sử ta mới là kẻ thiếu trung thực !

Tuy nhiên nhiều học giả hiện đại đã cố đem các nguyên tắc và khuôn phép “khoa học” ngày nay ra để suy diễn (nếu không muốn nói là quy chụp) rằng Ngô Sĩ Liên đã bịa đặt ra chuyện họ Hồng Bàng đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư !? Theo tôi đó là nhận định chủ quan, thiếu căn cứ.
Lập luận của các học giả này chủ yếu là cho rằng các sử quan thời Lê Thánh Tôn có tinh thần dân tộc chủ nghĩa (muốn bịa ra sử VN “cho bằng với TQ” ?), hay muốn tô vẽ củng cố cho chế độ phong kiến đương thời .v.v. nhưng xét ra đây cũng chỉ là các ý kiến chủ quan hoặc định kiến của cá nhân các tác giả đó, những phán quyết “đao to búa lớn” đó không phải là “cứ liệu” hay “sử liệu” gì cả…
Chỉ có một thông tin có thể coi là sử liệu mà các học giả trên thường nhắc đến là câu trong sách “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn : “lại phụ hội với ‘Liễu Nghị truyện’ của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứ”
Tuy nhiên nhận định của họ dựa vào việc mặc nhiên coi chuyện Liễu Nghị là tiểu thuyết bịa đặt 100% mà không xem xét khả năng chuyện đó vốn có nguồn gốc lâu đời cả nghìn năm trước đời Đường, vốn là các truyền thuyết của nhóm dân cư cổ đại ở vùng hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử, lưu ý cho đến trước đời Tần cư dân vùng này vẫn là dân Bách Việt chứ không phải nhóm Tần-Tạng (Chine-Tibetan).

====

 Hình 1 (từ sách Sài Sơn Thực Lục, có ở Viện NC Hán Nôm):
Truyền tín truyền nghi 01 Hình 2 (Từ sách Đại Việt sử ký Toàn Thư, có trên trang nomfoundation):Truyền tín truyền nghi 02