Giới thiệu một địa chỉ tìm tài liệu
Xin gởi tới các bạn làm nghề nghiên cứu một địa chỉ để tìm sách và bài báo (books & articles):
https://1lib.fr
Ở Việt Nam thì nó sẽ chỉ sang địa chỉ :
https://vn1lib.org
Ví dụ gõ Truyện Kiều ở mục tìm sách (Books) thấy có cuốn Truyện Kiều của Trương Vĩnh Ký in lại năm 1911 cũng là một tài liệu quý.
Cám ơn Bác Khúc Thần đã share địa chỉ
TIẾP TỤC SO SÁNH CÁC BẢN KIỀU CỔ CỦA 3 MIỀN NAM, BẮC, VÀ HUẾ
Research and Development N.3(62), 2007, page 102-108. Published by Thua Thien Hue Scientic & Technology Office
Nguyễn Tài Cẩn – Nguyễn Thế – Phan Anh Dũng
1/ Chúng tôi hiện có 9 bản Kiều cổ, thuộc thế kỉ 19: 4 bản miền Bắc là Liễu Văn Đường 1871 (LVĐ), Quan Văn Đường 1879 (QVĐ), Thịnh Mĩ Đường 1879 (TMĐ), VNB –60 (?); 2 bản Huế là Lâm Nọa Phu 1870 (LNP), Kiều Oánh Mậu 1889-1902 (KOM); và 3 bản miền Nam là Duy Minh Thị 1872 (DMT), Trương Vĩnh Kí 1875 (TVK), A. Des Michels 1884 (ADM).
Khảo sát hơn 1960 câu có chữ nghĩa khác nhau giữa 9 bản ấy, trước đây chúng tôi đã làm mấy việc:
– Tính số lượng, tính tỉ lệ giống khác nhau giữa tất cả 9 bản, để dựng thành bảng tổng quan;
– Chọn những từ ngữ có mặt ở 5 bản trở lên, để xác lập các trường hợp phổ biến, có khả năng dễ được nhiều người chấp nhận;
– Cọn những từ ngữ chỉ xuất hiện ở một bản, để xem thử mỗi bản có nét độc đáo gì, với danh sách các trường hợp “độc hữu” như vậy;
– Và thống kê những từ ngữ chỉ có mặt ở 2 bản để xét xem thử bản nào hay đi cặp đôi với bản nào.
Xin xem các bảng và các con số đã công bố (1): vì công việc rất phức tạp, các con số đó có thể còn bị đếm sơ suất, chưa thật chính xác 100%, nhưng dầu sao chúng cũng đã cho phép chúng ta đi đến được một số nhận định bước đầu, có tính cách sơ kết (1).
Nhưng trước đây chúng tôi còn tạm gác các trường hợp có từ ngữ giống hoặc khác nhau giữa 3, 4 bản. Nay phải cố gắng xét thêm các trường hợp đó, rồi với các kết quả bổ sung thu thập được lần này, cố gắng đi sâu thêm vào một hướng tìm hiểu mới nữa: tìm hiểu 6 khả năng diễn biến trong 2 đợt thay đổi chữ nghĩa, khi đi từ DMT đễn LVĐ cũng như khi đi từ LVĐ đến 2 bản LNP, KOM của Huế.
2/ Như đã biết, 4 bản miền Bắc có thể chia thành hai nhóm nhỏ: nhóm LVĐ + QVĐ và nhóm TMĐ + VNB-60. Nhưng giữa 2 nhóm đó, cũng như giữa 4 bản, chữ nghĩa đều rất gần gũi nhau, chọn nhóm nào, bản nào để đại diện cho miền Bắc cũng được cả (chúng có chung từ hơn 81 % đến khoảng 92% tổng số dị bản). Tuy nhiên vẫn nên chọn bản LVĐ vì đó là bản in sớm nhất.
Nhóm 3 bản miền Nam thì thiếu thuần nhất hơn. Bản TVK chỉ giống bản DMT khoảng 59% dị bản. Bản ADM trung gian ở giữa, nhưng lại có nhược điểm là nhiều khi in Nôm theo DMT nhưng lại in Quốc ngữ theo TVK ! Do đó, nói đến miền Nam thì cũng chỉ nên chọn bản DMT.
Riêng hai bản của Huế có tình hình ngược lại. Chúng tuy ở cùng một miền nhưng lại rất khác xa nhau: chúng chỉ có chung khoảng trên 53 % tổng số dị bản. Hơn nữa con số từ ngữ độc hữu của chúng rất cao (282 ở LNP, 308 ở KOM) và chúng đều có đến 223 lần đi cặp đôi với nhau, với từ ngữ khác hẳn 7 bản còn lại. Như vậy loại dị bản thực sự chắc chắn đại diện cho Huế phải là những dị bản đồng thời có mặt ở cả LNP ở cả KOM. Những khi chỉ chọn một bản để thay mặt cho cả Huế thì phải coi đó là điều bất đắc dĩ, cần phải hết sức thận trọng.
3/ Những câu chưa nhất trí giữa 9 bản có thể có đến 3, 4, thậm chí 5 cách dùng chữ nghĩa khác nhau, ví dụ:
– Ở câu 2627 Cửa …. vội mở / thác / rèm châu
chữ thứ 2 có thể là BỒNG, BUỒNG, PHÒNG tùy bản: BỒNG ở DMT, KOM; BUỒNG ở LNP; và PHÒNG ở 4 bản miền Bắc;
– Ở câu 2638 Thì đà đắm ngọc chìm hương .… rồi
chữ thứ 7 có thể là MẤT, QUÁ, CHO, hoặc ĐÃ: MẤT ở TVK; QUÁ ở KOM; CHO ở LVĐ; ĐÃ ở DMT và LNP.
– Ở câu 2665 Ma …. lối, quỉ đem đường
chữ thứ 2 có thể là GIỦI, DẮC, MÁCH, ĐƯA, DẪN: GIỦI ở DMT; DẮC ở TVK; MÁCH ở LNP; ĐƯA ở LVĐ, KOM; và DẪN ở TMĐ, VNB-60.
Nhưng trên đại thể, chúng ta đều thường chỉ có 2 dị bản. Vậy có 2 dị bản là trường hợp sẽ được tập trung sự chú ý nhất.
4/ Nếu ở một vị trí X nào đó, trong một câu Y nào đó, mà có 2 dị bản bất kì là A, B thì sự khác nhau cần chú ý nhất giữa A và B là: đúng và sai hoặc hay và dở. Trường hợp dùng đúng thay sai thường được gọi đính ngoa; trường hợp dùng hay thay dở thường được gọi là nhuận sắc. Ngược lại với đính ngoa và nhuận sắc là trường hợp vô tình tạo ra những dị bản sai lầm hay kém cõi hơn. So sánh các dị bản A (tạm qui ước là hay, đúng) và B (tạm qui ước là dở, sai) của 3 miền Nam, Bắc, Huế, trên lí thuyết, tối đa, có thể đi đến 8 khả năng trừu tượng như sau:
NAM (đại diện: ở DMT) BẮC (đại diện: ở LVĐ) HUẾ (ở cả LNP cả KOM)
1- A A A
2- A A B
3- A B A
4- A B B
5- B A A
6- B A B
7- B B A
8- B B B
Hai trường hợp 1 và 8 là hai trường hợp không có thay đổi giữa 4 bản nên có thể tạm gác. Còn 6 trường hợp trung gian thì đều có sự thay thế (đổi A thành B hay đổi B thành A), nên chúng ta phải khảo sát. Theo G. S. Hoàng Xuân Hãn, bản DMT là bản “quí nhất”, có gốc “xưa nhất”, và có từ ngữ “gần với lời của cụ Nguyễn Du hơn cả”; bản gốc cuối cùng của nó lại được biên tập trong khoảng 1825—1836, vì đã kị húy chữ ĐANG theo lệnh năm 1825, chưa kị húy chữ KIỂU (trong KIỂU TÁNG) theo lệnh năm 1836. Bản LVĐ, nói riêng, các bản miền Bắc nói chung, đều được biên tập hơi chậm hơn, trong khoảng 1836—1840 vì chúng đã kị húy chữ KIỂU theo lệnh đời Minh Mạng nhưng chưa kị húy TÔNG, THẬT … theo lệnh đời Thiệu Trị. Còn bản LNP thì đã kị húy THỜI, NHẬM đời Tự Đức, và bản KOM thì đã kị húy cả chữ CHIÊU đời Thành Thái. Như vậy những sự thay đổi từ A đến B hay từ B đến A đều phải chia ra thành hai đợt khác nhau: đợt trước, nếu đi từ DMT đến LVĐ, đợt sau nếu đi từ LVĐ đến hai bản LNP+KOM.
5/– Ví dụ về trường hợp 2: A-A-B:
Ở câu 98 Gió hiu hiu thổi một và …. lau
các bản DMT, LVĐ đều dùng dị bản NGỌN LAU, nhưng từ KOM trở về sau lại thường đổi thành BÔNG LAU:đổi tưởng cho hay hơn nhưng kì thực lại phạm sai lầm lớn, vì loài lau lách thường chỉ ra hoa từ mùa thu, tiết Thanh minh chưa thể có bông lau !
– Ví dụ về trường hợp 3: A-B-A:
Ở câu 168 Khách đà …. ngựa người còn nghé theo
bản DMT cũng như 2 bản TVK, ADM đều dùng LÊN NGỰA, không hiểu sao bản LVĐ và 2 bản QVĐ, TMĐ lại đổi nhầm thành XUỐNG NGỰA ! May rằng 2 bản LNP, KOM đã đính ngoa lại được và đã có ảnh hưởng tốt đến bản VNB-60.
– Ví dụ về trường hợp 4: A-B-B:
Ở câu 30 Pha nghề …. họa, đủ mùi ca ngâm
bản DMT đã dùng THƯ HỌA: rất đúng, theo ý chúng tôi ! Trong Thanh Tâm Tài Nhân cũng như trong Nguyễn Du đều có khen tài thư pháp của nàng Kiều:
Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với thiếp Lan đình nào thua
Nhưng các bản miền Bắc đã nhầm thành THI HỌA, vừa bỏ mất tài viết đẹp của nhân vật vừa gây trùng lặp giữa THI và CA NGÂM ở sau. Các bản Huế đã lặp lại sai lầm này. Và cả hai bản TVK, ADM cũng bị sai lầm theo.
– Ví dụ về trường hợp 5: B-A-A:
Ở câu 22 Mây thua nước tóc tuyết nhường màu ….
bản DMT in nhầm DA thành LƯNG, làm mất vần, nhưng các bản LVĐ; LNP, KOM về sau đều đính ngoa lại được cả.
– Về trường hợp 6: B-A-B
nói chung rất khó tìm ra những ví dụ thích đáng. Điều đó cũng dễ hiểu: cũng như ở trường hợp A-B-A, trường hợp này cũng có sự giống nhau giữa DMT và 2 bản của Huế. Nhưng nếu ở A-B-A trên đây chuyện Huế phục hồi lại một dị bản tốt bị mất đi là chuyện thường tình thì ở đây ai cũng sẽ lấy làm lạ trước câu hỏi: LVĐ đã có công đính ngoa được một sai lầm của DMT, sao hai bản Huế không phục thiện mà lại đem một cái sai, cái dở xưa ra vãn hồi ?
Tuy nhiên, nếu cần minh họa phần nào cho mô hình B-A-B, thì cũng có thể tạm dẫn ví dụ như ở câu 114
“Bóng chiều đã ngã, ……. . . …… còn xa”
vì có người cho rằng: DMT dùng DẶM VỀ là kém, LVĐ đổi lại thành DẶM HOÈ là hay, nhưng LNP, KOM lại phục hồi dị bản kém !
Lập luận của những người đó là như sau: DẶM VỀ kém DẶM HOÈ vì VỀ là động từ, đối với CHIỀU không chỉnh bằng danh từ HOÈ ! Nhưng ý kiến này vị tất đã được mọi người nhất trí tán đồng !
– Ví dụ về trường hợp 7: B-B-A:
Ở câu 1685 Trên Tam …. , dưới Cửu tuyền
các bản miền Nam, miền Bắc đều dùng TAM BẢO: rõ ràng bản DMT đã phổ biến một dị bản sai lầm và các bản miền Bắc về sau vẫn tiếp tục sai theo. Phải đến hai bản LNP và KOM của Huế thì mới đính ngoa lại được thành TAM ĐẢO.
6/ Với cách tiến hành như trên, chúng tôi đã đi đến những con số như sau:
A) Ở đợt điều tra về các dị bản phổ biến, có mặt ở từ 5 bản trở lên:
– Chỉ có chung giữa Nam và Bắc (tức trừ Huế): khoảng 330 dị bản;
– Chỉ có chung giữa Bắc và Huế (tức trừ Nam): khoảng 93 dị bản;
– Và chỉ giữa Huế và miền Nam (tức trừ Bắc): khoảng 64 dị bản. (2).
B) Ở đợt điều tra bổ sung về các dị bản thiểu số chỉ có mặt ở 3, 4 bản:
– Có thêm khoảng 29 trường hợp chung giữa Nam, Bắc, đưa tổng số thành: 330+29=359;
– Có thêm khoảng 13 trường hợp chung giữa Bắc và Huế, đưa tổng số thành: 93+13=106;
– Và có thêm gần 40 trường hợp chung giữa Huế và Nam, đưa tổng số thành: 64+37=101.
Nhưng về thời gian trước sau chúng ta đã xếp 3 bản theo trình tự: DMT-LVĐ-LNP&KOM, vậy:
* 359 dị bản chung giữa Nam, Bắc có thể qui vào 1 mô hình gồm 2 khả năng A-A-B hoặc B-B-A;
* 106 dị bản chung giữa Bắc và Huế có thể qui vào 1 mô hình gồm 2 khả năng A-B-B hoặc B-A-A;
* 101 dị bản giữa Huế và Nam cũng tạo ra một mô hình, gồm 2 khả năng A-B-A hoặc B-A-B. (3).
7/ Theo ý chúng tôi, tất cả các kết quả trên đây đều góp phần soi rõ các bước đi đầu tiên trong lịch sử truyền bá Truyện Kiều. Căn cứ 9 bản thế kỉ 19 hiện còn, có thể thấy được rằng:
I/ Bản sơ thảo của cụ Nguyễn Du vốn đã là một áng văn nhìn chung rất tuyệt vời, nhưng trong đó cũng vẫn có:
a/ Những chỗ quá thâm trầm, độc đáo, người đọc bình thường không phải đều dễ tiếp nhận cả (như dùng NĂM TRÒN dịch NGŨ LUÂN ở câu 327 chẳng hạn !);
b/ Lại có một số từ ngữ khá đặc biệt: như một số từ ngữ cổ, một số từ ngữ địa phương Nghệ Tĩnh (ví dụ THA LA ở câu 170, CÁO ở câu 96). Về sau các từ ngữ này rất dễ bị các nơi khác thay đổi;
c/ Tất nhiên cũng có một số chỗ chính tác giả cũng chưa thật hài lòng, sau chính tác giả đã phải tự nhuận sắc lại (như các chỗ còn quá theo sát Thanh Tâm Tài Nhân, chẳng hạn TREO TRANH QUAN THÁNH ở câu 930, MÀ CHÀNG THÚC THỦ ở câu 2008 …).
II/ Bản sơ thảo chắc được nhà thơ bắt đầu viết ở Thăng Long, sau khi thi xong, khoảng 1783, và đã được hoàn thành khoảng 1790, thời về quê vợ ở, vùng Thái Bình (4). Bà con bạn bè biết chuyện đã xin cho chép lại: đây là lí do hình thành các bản sao đầu tiên của miền Bắc. Nhưng rồi nhà thơ lại phải về quê cũ ở, dưới chân núi Hồng. Nhà thơ tiếp tục tự nhuận sắc, tiếp tục cho sao chép thêm một số bản ở Nghệ Tĩnh. Các bản sao đầu tiên này – ở Nghệ Tĩnh cũng như ở miền Bắc – đều không tránh khỏi có những chỗ sai lầm về tự dạng, về từ vựng hay cả về mặt gieo vần.
III/ Bỗng lịch sử sang trang: Gia Long chiến thắng; một triều đại mới, hết sức chuyên chế, được bắt đầu. Tình thế đó đòi hỏi nhà thơ, cũng như bà con, bạn bè nhà thơ phải cố gắng xóa bỏ những chỗ kị húy Lê Trịnh cũ, phải thực hiện triệt để các lệnh kị húy mới, do triều Nguyễn ban hành, ngay từ năm 1803. Và cũng phải hết sức cố gắng giữ thái độ im hơi lặng tiếng, tránh làm sao cho khỏi bị triều đình mới chú ý, soi mói, bắt tội, vì những câu động trời vốn có trong tác phẩm.
8/ Nhưng “hữu xạ tự nhiên hương”, và với thời gian trôi qua, cuối cùng rồi tác phẩm cũng đến lúc được xã hội đòi hỏi phải phổ biến. Những bản in bán ngoài phố phường bắt đầu ra đời: bản LVĐ 1866, bản LVĐ 1871 v.v. . In sớm nhất, và ở một vùng sẵn có các bản sao cổ, nên chúng còn rất gần gũi với nguyên tác: con số 1184 dị bản chung với DMT (khoảng trên 60%), con số 359 trường hợp có mô hình chung Nam Bắc nêu trên đây đều là những con số phản ảnh điều đó.
Sự gần gũi với gia tài quá khứ còn thể hiện ra ở chỗ: có khoảng hơn 50 chữ các bản sao cổ vô tình bị sai lầm, thậm chí có khi làm mất cả nghĩa, hoặc mất cả vần, mà bản LVĐ vẫn không sữa chữa, vẫn trung thành rập khuôn lại, khắc in đúng nguyên xi như trước. Cũng dễ hiểu: bản LVĐ, nói riêng, cả 4 bản miền Bắc nói chung, đều không phải là những bản do những nhà biên tập nổi tiếng đứng ra đính ngoa, nhuận sắc. Chúng đều là những bản dân dã; đằng sau lưng chúng chỉ có trách nhiệm của những ông chủ Hàng Gai, của những ông đồ được thuê sao chép và của những ông thợ Liễu Tràng.
Nhưng đã khắc in lại thì cũng khó giữ được sự vẹn toàn 100% ! Ba lớp người này cũng đã đưa đến những sự đổi thay khác trước: khác gần 40% tổng số dị bản và khác đến 106 trường hợp A-B-B hoặc B-A-A. Trong những sự đổi thay đó có cả mặt tích cực, (như ở khoảng 15 dị bản thuộc B-A-A: tránh được một số sai lầm của các bản sao cổ) và cả mặt tiêu cực(như đẻ thêm một số sai lầm mới (ví dụ trong câu 168 đã nói ở mục 5 trên đây) hoặc để mất một số cách diễn đạt độc đáo của nguyên tác (ví dụ trong khoảng 91 dị bản thuộc A-B-B).
9/ Các bản truyền bá ở Thuận Hóa thì chưa rõ nguồn gốc vào đến kinh đô từ lúc nào: có thể có bộ phận ngược lên đến bản cụ Nguyễn Du đã tặng cho ông anh Nguyễn Nễ năm 1793, hồi Cụ vào thăm anh, đời Tây Sơn; có thể có bộ phận được chép sao lại từ bản nhà thơ đem theo hồi mới vào nhận chức; cũng có thể có bộ phận bắt nguồn từ bản năm 1811 đi cùng với cụ Phạm Quí Thích. Nhưng khi ở Huế rộ lên phong trào sao chép Truyện Kiều thì các bản gần nhất được phổ biến lại là loại bản in miền Bắc: không phải ngẫu nhiên mà có đến 106 trường hợp chung giữa LVĐ với LNP&KOM đã kể ở trên.
Mặt khác, Huế là đất kinh đô, nơi tập trung rất nhiều người thuộc tầng lớp đỗ đạt cao, thuộc tầng lớp sính văn chương, thích đính ngoa, thích nhuận sắc. Những vị này đã bỏ công sửa chữa rất nhiều (5), làm cho con số dị bản chung với các miền giảm hẳn xuống: chỉ còn khoảng 43 % tổng số, so với DMT, và khoảng 49%, so với LVĐ !
Nhưng Huế cũng không phải là một nơi chỉ có làm biến dạngTruyện Kiều ! Tất cả các loại sai lầm thô sơ, lưu cữu trong các bản có từ trước, sau khi đến Huế đều đã được đính ngoa hầu như toàn bộ; 101 trường hợp từ ngữ của nguyên tác bị các bản dân dã để mất đi, sau khi đến kinh đô cũng đều đã được phục hồi. Chắc là nhờ có công đóng góp của cả tác giả, của cả các bạn bè tác giả. Cụ Nguyễn Du sau khi đến Huế hẵn đã có thêm điều kiện cân nhắc suy xét để tiếp tục gia thêm sự tự nhuận sắc (6). Bạn bè của Cụ ở Huế cũng hẳn là những con người tinh tế dễ phát hiện ra được và phục hồi lại được những gì độc đáo của nguyên tác mà không may đã bị các bản in vô tình làm sai lạc hẳn đi (7). Có thể nói, cả 101 dị bản thuộc mô hình A-B-A (8) đã nêu trên đây đều rất quí. Sự có mặt đồng thời ở cả bản DMT, ở cả hai bản LNP & KOM, có thể đáng coi là một tiêu chí rất bảo đảm: khi định tái lập nguyên lời văn của cụ Nguyễn Du, mà gặp được những dị bản như vậy thì dứt khoát phải chọn chúng, cho dầu đó là những dị bản không thuộc loại phổ biến.
10/ Nhưng đến đây chúng ta phải thừa nhận: có những câu hỏi đang treo, chưa được giải đáp triệt để. Ví dụ trong 359 dị bản chung giữa DMT và LVĐ, cũng như trong 106 dị bản chung giữa LVĐ và 2 bản Huế, hay trong 101 dị bản chung giữa Huế và DMT, chúng ta chưa biết được thật chính xác có bao nhiêu dị bản nên xếp vào A, bao nhiêu dị bản nên xếp vào B ? Nói một cách khác, vấn đề số lượng của hai khả năng trong mỗi mô hình là một vấn đề chưa thật được làm sáng rõ. Chúng ta đã tạm qui ước xếp vào A là những di bản đúng, hay; xếp vào B là những dị bản sai, dở. Nhưng phân biệt đúng sai là điều tương đối dễ phát hiện như đã thấy qua sơ bộ tính toán trên đây, còn phân biệt hay dở thì lại là điều nhiều khi rất dễ gây rắc rối, người nghĩ thế này, người cho thế khác, không ai chịu ai ! Rõ ràng đang cần phải có thêm những công trình nghiên cứu tiếp: công bố đầy đủ danh sách các dị bản, thảo luận về các tiêu chí dùng khi đánh giá, và sau đó cùng nhau trao đổi về từng dị bản một (hay ít nhất là về các dị bản có vấn đề nhất).
=======================================
CHÚ THÍCH:
(1) TƯ LIỆU TRUYỆN KIỀU: TỪ BẢN DUY MINH THỊ ĐẾN BẢN KIỀU OÁNH MẬU – TTNC Quốc Học và Nhà XB Văn học in năm 2004; xin xem từ trang 55 đến trang 79.
(2) Xin xem thêm bài của Nguyễn Tài Cẩn & Phan Anh Dũng, Tạp chí Sông Hương số 211, tháng 09 -2006.
Chúng tôi đã đưa ra những con số rất cụ thể, nhưng vẫn dùng những chữ ước chừng như “ khoảng”, “gần” v. v. là để đề phòng khả năng còn bị sơ suất trong khi đếm.
(3) Chúng ta có những cặp 2 khả năng đối xứng như A-A-B, B-B-A giữa Nam, Bắc; A-B-B, B-A-A giữa Bắc và Huế, hoặc A-B-A và B-A-B giữa Huế và Nam. Mỗi cặp 2 khả năng đó đều có thể qui thành một mô hình, như mô hình chung giữa 2 miền: mô hình NAM-BẮC, mô hình BẮC-HUẾ, mô hình HUẾ-NAM.
(4) Các vết tích kị húy Lê Trịnh còn sót lại đã chứng minh điều đó, xin xem các bài của Nguyễn Tài Cẩn, của Nguyễn Tài Cẩn & Ngô Đức Thọ và của Nguyễn Tài Cẩn & Đào Thái Tôn đăng ở NC Văn học số 3 và số 11/2005, KT ngày nay số 4/2005, Lao Động số 92/2005, TC Hán Nôm số 3(70)/2005.
(5) Như bốn câu 531, 532, 533, 534 đã bị chữa thành 6 câu (xin xem LNP & KOM) !
(6) Ví dụ ở câu 1064, trước cụ Nguyễn Du vẫn theo sát TTTN, viết TRÔNG CHÀNG NÀNG CŨNG …. nhưng sau khi vào Huế Cụ đã cân nhắc và viết lại thành TRÔNG NÀNG CHÀNG CŨNG RA TÌNH ĐEO ĐAI, để vạch mặt SỞ KHANH cũng như để bảo vệ Kiều. .
(7) Ở câu 775, LNP và KOM vẫn dùng RÉN CHIỀNG như trong câu 773 của DMT; dị bản cổ này đã bị các bản miền Bắc, và ngay cả 2 bản TVK, ADM của miền Nam, nhất luật đổi thành THƯA CHIỀNG.
(8) Trong mô hình chung giữa LNP & KOM và DMT, chắc chỉ còn lại A-B-A, vì khả năng B-A-B thì hầu như ít khi được ai chấp nhận. Xin xem lại mục 5 ở trên.
BÀN THÊM VỀ BẢN KIỀU DUY MINH THỊ 1872
BÀN THÊM VỀ BẢN KIỀU DUY MINH THỊ 1872
Nguyễn Tài Cẩn
Phan Anh Dũng
Đã đăng tạp chí Sông Hương No. 211, 9/2006, page 78-81
1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều : bản Liễu Văn Đường 1871“. Chúng tôi thành thực hoan nghênh : hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi. Một sự tranh luận thẳng thắn bao giờ cũng là điều rất cần thiết, nhất là hiện nay, nếu muốn đẩy ngành Kiều học tiến lên (1)
Với tinh thần như vậy, dưới đây chúng tôi xin trao đổi thêm với Tiến sĩ về 2 vấn đề:
— Bản Kiều chép tay mà cụ H.X.Hãn đề cao có phải chính là một bản D.M.Thị không ?
— Và bản D.M.Thị là một bản nên xếp vào đâu ? Nó gần các bản Huế hơn hay là gần các bản hệ Thăng Long hơn ?
2/ Về vấn đề đầu, T.S. Đào Thái Tôn cho rằng trong bài nói của cụ H.X.Hãn “có một câu dễ khiến người đọc có thể hiểu như thế“(trang 83).Theo ý chúng tôi đó chỉ là một trong hệ thống những câu nói về nhiều chuyện khác nữa. Chúng đều chứng tỏ rằng Cụ pH.X.Hãn đang quan tâm đến một bản chép tay liên quan đến bản D.M.Thị, ví dụ như :
— Chuyện Cụ nói về những chi tiết cụ Nguyễn Du “lấy trong Kiều (2), viết ra y như thế, rồi những bản Nôm sau này người ta bỏ đi“. “Cái bản còn giữ nguyên vẹn những chi tiết … ấy là bản đầu tiên, ít ra gần với lời cụ Nguyễn Du hơn cả“.
— Chuyện Cụ về Tiên Điền hỏi cụ Nghè Mai về việc dùng TRƯỢNG NGHĨA thay cho TRỌNG NGHĨA để kị húy trong dòng họ; Cụ nói : “Trong Kiều thường thì nói “Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao”, nhưng bản tôi đọc mà tôi cho là xưa nhất thì không đúng thế, mà viết TRƯỢNG NGHĨA “ ;
— Chuyện Cụ hỏi cụ Nghè Mai về đoạn Sở Khanh tán Kiều, và được trả lời : “ Trước cụ Nguyễn Du viết khác, rồi các cụ ngoài Bắc chữa lại. Cụ Nguyễn Du viết có 4 câu, các cụ chữa lại 6 câu “; Về câu trả lời đó, cụ H.X. Hãn bình luận : “lời cụ Nguyễn Mai nói về đoạn ấy phù hợp với bản tôi coi là xưa nhất “.
— Chuyện Cụ thông tin cho chúng ta biết : “có một bản ở trong Nam thấy đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng (3). Thì mình chắc chắn bản ấy người ta sao lại một bản từ đời Gia Long“. ”Vào khoảng 42-43 tôi đã thấy bản này rồi” … ”Hiện bây giờ có bản in, nhưng in sai rất nhiều, cho nên không mấy người để ý tới”. “Nhưng sự thực bản ấy là bản quí nhất“.
Cụ H.X.Hãn cho biết Cụ về điều tra ở dòng họ Tiên Điền vào những năm 1942, 1943. Vào những năm đó Cụ chỉ mới có được một số bản Kiều cổ viết tay chứ chưa có được một bản in nào của thế kỉ 19. Mặt khác, các chuyện Cụ đề cập đến trên đây lại đều là những chuyện chỉ liên quan đến một bản duy nhất : bản D.M.Thị (không kể đến hai bản T.V,Kí và A.D.Michels in sau, và chịu ảnh hưởng D.M.Thị). Quả vậy, trong số các bản Kiều cổ như bản LNP chép năm 1870, 2 bản LVĐ in năm 1866 và 1871, bản TVKí in năm 1875, hai bản QVĐ và TMĐ in năm 1879, bản A. D. Michels in năm 1884, bản có kí hiệu thư viện là VNB-60, bản của Nordemann in năm 1897, và bản K.O.Mậu biên tập trong khoảng 1889-1902…chỉ bản D.M.Thị là bản :
* Vừa có các câu bám sát nguyên tác Hán văn của T.T.T.Nhân, như
— Treo tranh Quan Thánh trắng đôi lông mày (câu 930)
— Mà chàng Thúc Thủ (thúc thủ) ra người bó tay (câu 2008)
— Trông chàng nàng cũng ra tình đeo đai (câu 1064)
………………..
* Vừa có TRƯỢNG NGHĨA thay cho TRỌNG NGHĨA :
— Mà lòng trượng nghĩa khinh tài xiết bao (câu 310)
* Vừa có 4 câu cụ Nguyễn Du sơ thảo :
Quế trong trăng, hạnh trên mây
Cát lầm nỡ để cho đầy đọa hoa
Tiếc điều nhầm chẳng biết ta
Vể châu vớt ngọc dễ đà như chơi
thay vì 6 câu 1067, 1068, 1069, 1070, 1071, 1072 đã được bạn bè chữa lại :
Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo giã giày với hoa
Nổi gan riêng giận trời già
Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi
* Vừa có vết tích kị húy một cách triệt để theo lệnh năm 1803 đời Gia Long ( kị húy GIỐNG/CHỦNG 6 lần bằng thay từ và 1 lần bằng gia dạng trên tổng số 7 chỗ; kị húy LAN, thay bằng HƯƠNG cũng 7 lần trên 7 chỗ v.v.); thậm chí có khi kị húy một cách quá mức cần thiết, như kị húy động từ LAN trong CỎ LAN MẶT ĐẤT, hay kị húy thanh phù LAN trong chữ DAN !) .
Vậy rõ ràng bản Kiều chép tay mà Cụ Hãn đề cao là một bản sao lại từ bản D.M.Thị 1872 hay sao lại từ bản gốc của bản in này (4).
3/ Về vấn đề thứ hai thì chúng tôi chủ trương chia các bản Kiều thế kỉ 19 thành 3 nhóm, căn cứ theo địa bàn xuất hiện của chúng ở 3 miền khác nhau : các bản miền Bắc, các bản gốc Huế và các bản của miền Nam. T.S. Đào Thái Tôn, trái lại, chỉ phân thành hai hệ: hệ Thăng Long và hệ của kinh đô Huế. Bản D.M.Thị và bản Nordemann được tiến sĩ xếp vào hệ Huế.
Chuyện nên chia theo ba miền hay chia thành hai hệ và chuyện đặt bản Nordemann vào hệ Huế chúng tôi sẽ xin bàn trong một bài sau. Ở đây chúng tôi chỉ xin chứng minh rằng bản DM Thị có đặc điểm rất xa các bản LNP, KOM gốc Huế và rất gần với các bản miền Bắc, thuộc hệ Thăng Long, ngay nếu chỉ căn cứ đơn thuần trên các bảng điều tra của chính ngay tác giả (T.S. Đào Thái Tôn).
Từ trang 100 đến trang 169 T.S. Đào Thái Tôn đã lập những bảng có hình thức như sau:
– Ở cột phía bên trái là 5 bản miền Bắc, thuộc hệ Thăng Long, xếp theo thứ tự ABCDE: A là bản LVĐ 1866, B là bản LVĐ 1871, C là bản QVĐ 1879, D là bản TMĐ 1879 và E là bản có kí hiệu VNB-60 .
– Ở cột phía bên phải là 6 bản Tiến sĩ cho là thuộc hệ Huế, xếp theo thứ tự @GHIKL : @ là bản LNP, G là bản DMThị, H là bản TVKí, I là bản A.D Michels, K là bản Nordemann và L là bản KOMậu .
Trong các bảng vẽ này đang còn một số chỗ sơ suất nhất định nhưng tạm thời chúng tôi xin hoàn toàn tôn trọng tác giả ở các chỗ đó. Chúng tôi chỉ xin nêu 2 đề nghị :
– Tạm gác bản A /1866 vì bản này mất quá nhiều tờ, gây khó khăn cho việc tính toán;
– Và tạm coi bản K/1897 như một bản trung lập không ảnh hưởng gì đến 3 quá trình so sánh: DMThị với hệ Thăng Long, DMThị với hệ Huế, hệ Huế với hệ Thăng Long .
Chúng tôi chỉ chọn những câu có dị bản phổ biến, có mặt ở 6 bản trở lên trong tổng số 10 bản BCDE và @GHIKL vì đó là những trường hợp có thể rất gần với nguyên tác, dễ được mọi người tán thành. Làm như thế thì các bảng vẽ của T.S. Đào Thái Tôn sẽ đưa đến ba kết quả so sánh như sau :
I/ Ở BẢNG SO SÁNH BẢN DMT VỚI CÁC BẢN MIỀN BẮC (tức không có các bản HUẾ) chúng ta có 8 trường hợp với số lượng như sau (5) :
B | C | D | E | @ | G | H | I | K | L | |
B | C | D | E | / | G | H | I | K | / | ở 56 câu, ví dụ câu 34 |
B | C | D | E | / | G | / | I | K | / | ở 12 câu, ví dụ câu 102 |
B | C | D | E | / | G | / | I | / | / | ở 6 câu, ví dụ câu 322 |
B | C | D | E | / | G | H | I | / | / | ở 5 câu, ví dụ câu 173 |
B | C | D | / | / | G | H | I | K | / | ở 2 câu, ví dụ câu 44 |
B | C | D | E | / | G | / | / | K | / | ở 2 câu, ví dụ câu 492 |
B | C | / | E | / | G | / | I | K | / | ở 1 câu 21 |
B | C | D | E | / | G | H | / | K | / | ở 1 câu 529 |
Như vậy trong tổng số các câu dùng những dị bản thuộc loại phổ biến, bản DMT đã có đến 85 câu giống y như bản LVĐ 1871 nói riêng, giống hầu hết các bản miền Bắc, nói chung.
II/ Ở BẢNG SO SÁNH CÁC BẢN MIỀN BẮC VỚI HAI BẢN GỐC HUẾ (tức không có các bản miền Nam) chúng ta lại có 5 trường hợp với số lượng như sau :
B | C | D | E | @ | G | H | I | K | L | |
B | C | D | E | @ | / | / | / | K | L | ở 22 câu, ví dụ câu 20 |
B | C | D | E | @ | / | / | / | / | L | ở 9 câu, ví dụ câu 555 |
B | C | D | E | @ | / | / | / | K | / | ở 4 câu, ví dụ câu 486 |
B | C | D | E | / | / | / | / | K | L | ở 3 câu, ví dụ câu 25 |
B | C | D | / | @ | / | / | / | K | L | 1 câu, ví dụ câu 448 |
Ở đây rõ ràng chúng ta lại phải kết luận là bản LVĐ/ 1871, cũng như đa số các bản miền Bắc, đều chỉ có được 39 dị bản giống với hai bản gốc Huế. Sự gần gũi giữa DMT /1872 với LVĐ/1871 lớn hơn gấp đôi !
III / CÒN Ở BẢNG SO SÁNH HAI BẢN HUẾ VỚI BẢN DMT ( tức không có các bản miền Bắc) chúng ta lại chỉ có được 17 câu, theo một mô hình duy nhất là :
@ | G | H | I | K | L | ở 17 câu, ví dụ câu 84 |
Còn nếu coi NHỠ NHÀNG cũng như LỠ LÀNG, coi BẤY LÒNG cũng như MẤY LÒNG thì con số sẽ được nâng lên thành 17+2+1= 20 .Con số đó vẫn rẩt thấp : chỉ bằng ½ con số ở bảng thứ hai và bằng chưa đến ¼ con số ở bảng thứ nhất. Vậy bản DMT gần nhất với các bản miền Bắc (85 dị bản giống nhau), các bản miền Bắc hơi xa hai bản Huế (39 dị bản giống nhau), hai bản Huế lại xa nhất bản DMT (chỉ còn tối đa 20 dị bản chung). Cứ liệu tiến sĩ Đào Thái Tôn nghiên cứu trên cơ sở 1100 câu hoàn toàn ăn khớp với cứ liệu nghiên cứu toàn bộ Truyện Kiều của chúng tôi, so sánh :
Số dị bản giống nhau
ở Đào Thái Tôn ở Nguyễn Tài Cẩn
— Quan hệ DMT với các bản miền Bắc : 85 330
— Quan hệ các bản ở Bắc với ở Huế : 39 93
— Quan hệ hai bản Huế với bản DMT : 20 64
Rõ ràng phải để bản DMT thành một hệ riêng chứ không thể xếp nó vào trong cùng hệ Huế là hệ xa nó nhất.
Chú thích :
(1) : Đúng theo mong muốn của chúng tôi ! Trong cuốn “Từ bản DMT đến bản KOM”, trang 94, chúng tôi đã viết : ”Nếu chọn những dị bản quen thuộc thì chắc dễ được nhiều người tán thành. Nhưng mục đích của chúng tôi lại có phần khác: cố gắng gợi lên những khả năng mới, lật ngược vấn đề để gây tranh luận, kích thích tinh thần thích tìm tòi, thích khám phá . Đó là lí do vì sao chúng tôi hay quan tâm đến các dị bản lạ, bất ngờ, bị thiểu số.”
(2) : Tức lấy từ trong nguyên bản KIM VÂN KIỀU TRUYỆN của Thanh Tâm Tài Nhân .
(3) : Cụ H.X.Hãn chỉ nghĩ đến việc kị húy các tên của Gia Long, Minh Mạng nên kết luận theo chuyện thấy bản DMT kị húy CHỦNG nhưng vẫn dùng TÂM ĐẢM, chứ không đổi thành TÂM PHÚC như ở nhiều bản khác. Còn nếu nghĩ đến các lệnh kị húy thì bản DMT đã kị húy theo lệnh năm 1825 đời Minh Mạng: kị húy chữ ĐANG, tên mẹ của Minh Mạng.
(4) Những sự đánh giá của cụ H.X.Hãn nêu trên đây (như “bản đầu tiên”, bản “xưa nhất“, “bản quí nhất“ ) cũng chứng tỏ rằng Cụ đang nói về một bản sao liên quan đến bản DMT. Gần đây anh Nguyễn Văn Hoàn, anh Nghiêm Xuân Hãn cũng đều khẳng định lại là Cụ rất đề cao bản Kiều đó.
(5) Chúng tôi dùng một đường gạch xiên / dưới bản nào là muốn nói rằng bản đó vắng mặt.