Một số hình thức phủ định của phương ngữ Huế
Một số hình thức phủ định của phương ngữ Huế
Cập nhật 15:01 17/10/13
1. Theo cách hiểu chung nhất, thì phương ngữ là biến thể theo địa phương hoặc theo tầng lớp xã hội của một ngôn ngữ. Có những biến thể thuộc ngữ âm, từ vựng và cũng có những biến thể thuộc ngữ pháp, phong cách. Hiện nay, đã có một số công trình liên quan đến nội dung đầu (nhiều nhất là từ điển phương ngữ), còn nội dung sau thì khá hiếm hoi.
Nhà nghiên cứu Triều Nguyên.
Trong quá trình tìm hiểu phương ngữ Huế, người viết nhận thấy phương ngữ này có một số hình thức phủ định (thuộc lĩnh vực ngữ pháp, phong cách) không như ngôn ngữ phổ thông. Bài viết ngắn này nhằm bước đầu miêu tả các hình thức phủ định ấy, có thể xem như một bổ sung cho tình hình vừa nói.
2. Dựa vào các phương tiện ngôn ngữ dùng để phủ định, tạm chia vấn đề làm hai phần: phủ định bằng hình thức láy và phủ định bằng hình thức sử dụng các mô hình dành riêng. Riêng phần hai, gồm: dạng phủ định A trong hai mô hình A thì/là B và A bằng/như B theo cách cho B có đặc điểm mâu thuẫn với A; và dạng phủ định đặc biệt với mô hình Lo + A (A: một sự vật, sự việc hiển nhiên).
2.1. Phủ định bằng hình thức láy
2.1.1. Hình thức láy để phủ định rất đáng được chú ý. Có hai dạng láy để phủ định thường gặp, đó là dạng láy để tạo nên một tổ hợp gồm hai âm tiết, trong đó âm tiết thứ hai lặp lại bộ phận vần và thanh điệu của âm tiết thứ nhất, đồng thời, thay phụ âm đầu bằng [l-]. Thí dụ: “bưởi” (quả bưởi) láy thành “bưởi lưởi”, “ngồi” láy thành “ngồi lồi”, “giỏi” láy thành “giỏi lỏi”,…
Trường hợp âm tiết thứ nhất không có phụ âm đầu thì vẫn thêm [l-] vào, như “ổi” láy thành “ổi lổi”, “ăn” láy thành “ăn lăn”, “đi” láy thành “đi li”,… Nhưng nếu phụ âm đầu của âm tiết ấy là [l-] thì không láy được, nếu cứ láy (theo hướng đang bàn, là láy nguyên dạng) thì chẳng những không còn hàm nghĩa phủ định mà có thể trở nên vô nghĩa, nhất là với trường hợp các danh từ. Chẳng hạn, các từ “lợn”, “lốc”, “lều”,… khi láy thành “lợn lợn”, “lốc lốc”, “lều lều” thì hoặc vô nghĩa, hoặc có thể cho là các từ biểu thị số nhiều (trong một số ngữ cảnh nhất định), còn nghĩa phủ định thì rất mờ nhạt, đến có thể nói là không có.
Dạng láy để phủ định tiếp theo là một tổ hợp gồm năm âm tiết, trong đó âm tiết thứ ba như âm tiết thứ hai của trường hợp láy để phủ định vừa trình bày, hai âm tiết bốn và năm hoàn toàn giống nhau, chỉ thay phụ âm đầu [l-] bằng [s-] (chữ viết: x-), riêng âm tiết thứ hai luôn cố định là “bờ”. Thí dụ (để tiện nắm bắt, ở đây dùng lại yếu tố gốc hay âm tiết thứ nhất trong thí dụ trước): “bưởi” láy thành “bưởi: bờ lưởi xưởi xưởi”, “ngồi” láy thành “ngồi: bờ lồi xồi xồi”, “giỏi” láy thành “giỏi: bờ lỏi xỏi xỏi”…
Tương tự với dạng láy trên, nếu âm tiết thứ nhất không có phụ âm đầu thì vẫn thêm [l-] vào, như “ổi” láy thành “ổi: bờ lổi xổi xổi”, “ăn” láy thành “ăn: bờ lăn xăn xăn”, “đi” láy thành “đi: bờ li xi xi”,… Riêng với trường hợp âm tiết thứ nhất có phụ âm đầu [l-], thì dạng láy này vẫn thực hiện được, theo cách âm tiết thứ ba lặp lại âm tiết đầu. Chẳng hạn, các từ “lợn”, “lốc”, “lều”,… khi láy, thành “lợn: bờ lợn xợn xợn”, “lốc: bờ lốc xốc xốc”, “lều: bờ lều xều xều”…
Có thể thấy, hai dạng láy vừa nêu thuộc loại láy bộ phận: khác nhau ở âm đầu, vần và thanh điệu giống nhau. Nổi bật, là vai trò của phụ âm đầu [l-]. Sự xuất hiện của nó ở hai dạng láy phủ định này không phải ngẫu nhiên, mà có thể giải thích đây là một sự kết hợp theo quy luật: hai phụ âm đầu trong mỗi tổ hợp phải khác nhau về phương thức và vị trí cấu âm, mà [l-] là một phụ âm bên, đối lập với tất cả các phụ âm còn lại, nên thỏa mãn yêu cầu này. Chúng ta đã biết, trong trường hợp láy bộ phận có âm đầu khác nhau, thì có đến khoảng một nửa bắt gặp sự xuất hiện của phụ âm đầu [l-] ở âm tiết láy lại (âm tiết này đứng trước âm tiết láy); thí dụ: lầu bầu, luẩn quẩn, lác đác, loay hoay, lỏng chỏng, lom khom, lễ mễ, lèm nhèm, lớ ngớ, lất phất, lầm rầm, lèo tèo, lưa thưa, lảng vảng, lăng xăng,…(1).
Cũng cần nói thêm về hệ quả của hai dạng láy này, là khi âm tiết đầu (tức âm tiết dùng để láy) có phần vần và thanh điệu giống nhau, thì đều có cùng một (hoặc một số) âm tiết láy giống nhau. Thí dụ, với các âm tiết (đồng thời là từ đơn) “bận”, “chận”, “hận”, “mận”, “rận”,… thì ở dạng láy đầu, đều có âm tiết láy là “lận” (“bận lận”, “hận lận”,…), và ở dạng láy sau, đều có các âm tiết láy là “bờ lận xận xận” (“chận: bờ lận xận xận”, “mận: bờ lận xận xận”,…).
Hai dạng láy để phủ định đang bàn ít sử dụng trong trường hợp có nhiều hơn một âm tiết dùng để láy. Trên thực tế, người viết chưa nghe có người láy các từ (hay tổ hợp) như “xe máy”, “ăn uống”, “giàu sang”, “hợp tác xã”. Có thể bấy giờ phải tách ra từng âm tiết (hay từ tố) để láy, như “xe le máy láy”, “ăn: bờ lăn xăn xăn, uống: bờ luống xuống xuống”, nhưng như thế nghe ra có vẻ “lặp cặp” do lạm dụng phương thức láy, cái thú vị của láy cũng sẽ giảm đi.
Về nghĩa, đây là hình thức láy mô hình, có yếu tố nghĩa chung là nhấn mạnh để phủ định một sự vật, hiện tượng hay một tính chất, trạng thái, hoạt động,… Hiển nhiên, những tổ hợp được tạo ra từ hai dạng láy vừa trình bày chỉ là những đơn vị lâm thời trong lời nói, không phải là đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ. Nói khác đi, đây là những cụm từ tự do(2). Chúng được sử dụng trong phương ngữ Huế, tương tự hiện tượng iếc hoá ở phương ngữ Bắc(3), đặc biệt là dạng đầu.
Dưới đây, là hai mẩu truyện cười, có thể coi là sự minh họa cho việc sử dụng hai dạng láy vừa trình bày trong dân gian vùng Huế:
1. MÚI LÚI XƠ LƠ
Người đàn bà nọ, mỗi lần đi chợ phiên về, đến bữa cơm thường bỏ đũa nửa chừng rên đau nhức trong người không ăn được. Việc lặp lại mãi khiến anh chồng đâm nghi ngờ.
(Ảnh: Cinet)
Một hôm, đến phiên chợ, người chồng làm như tình cờ ghé qua, và thấy ngay vợ đang cắm cúi ngồi ăn ở bà hàng mít. Trong lúc chị đang mải mê nhai, thì có một người ăn xin đến ngả tay, nói:
– Cho xin múi!
Người đàn bà không ngẩng mặt lên, đáp cộc lốc:
– Múi lúi!
Người ăn xin năn nỉ:
– Cho xin xơ!
– Xơ lơ!
Kế đó là một loạt câu trả lời, gạt bỏ yêu cầu của người ăn xin mà chị ta vung ra: đựng lựng, cồi lồi, hột lột!…
Thấy cảnh này, anh chồng lặng lẽ bỏ về.
Bữa cơm hôm đó, chị vợ cũng ăn lưng bát rồi rên mệt người, lên giường nằm. Người chồng tỏ ra quan tâm đến sức khỏe vợ, nói:
– Hãy làm một con gà, đĩa xôi cúng trời đất, để nhờ phù hộ cho!
Người vợ không thể làm khác lời được. Khi lễ vật bày xong trước nhà, anh chồng đốt hương đèn, chắp tay trịnh trọng mà xướng lên rằng:
– Múi lúi, xơ lơ, đựng lựng, cồi lồi, hột lột, vỏ lỏ…
Bệnh tình này chẳng khó khăn chi,
Hãy tống nhanh bọn quỷ kia đi!
Xông phà(4) đây!… Xông phà nì!…
Người đàn bà biết chồng đã rõ chuyện, muốn lỡm mình, nhưng không dám thốt lên một lời. Và từ đó, chị ta thôi không rên đau ốm sau khi đi chợ phiên về nữa.
2. MỆ ỒN LẮM!
Một bà lão bán cá ở một khu chợ xép. Buổi chợ hôm ấy, có một chị nông dân mang cá mà gia đình tát bắt được từ thửa ruộng sâu của mình đến bán, ngồi choán phía trước bà ta. Bà lão bực cái chị không biết điều kia, nhưng không thể đuổi đi được, mới chửi đổng lên rằng:
– Tổ cha mệ nội cha mấy đứa làm vệ sinh sáng ni không chịu quét dọn. Tổ cha mệ nội cha…
Chị kia biết bà ta chửi khéo mình, gắt gỏng:
– Mệ nói nhiều quá!
– Nhiều bờ liều xiều xiều!
– Mệ nói ít thôi!
– Ít bờ lít xít xít!
– Mệ im đi!
– Im bờ lim xìm xim!
– Mệ ồn lắm!
– Ồn bờ lìm xìm xìm!” (5).
2.1.2. Ngoài hai dạng láy vừa nêu, còn có một vài trường hợp láy với dụng ý phủ định khác được tìm thấy trong đồng dao. Các hình thức láy này gần với lối giễu, nhại. Dưới đây là ba văn bản liên quan:
– Học trò, học trỏ, học tro,
Chưa xong ba chữ đã lo vét nồi.
- Học trò, học trẹt,
Đánh bẹt ra mo,
Chó chẳng dọn cho,
Học trò dọn lấy!
- Thầy sãi thầy sai,
Niêu hai cơm nếp,
Thầy cả đánh hết,
Đạo tràng ngồi không;
Tín chủ ngồi đồng,
Xin thầy miếng cháy!
So với những ngữ liệu đã dẫn trước, thì tính chất là cụm từ tự do của “học trò, học trỏ, học tro”, “học trò, học trẹt”, “thầy sãi thầy sai” ít rõ ràng hơn; tức chúng gần với phương thức láy hơn (trong lúc ấn tượng về láy thì không mạnh bằng).
(Ảnh: VOV)
2.2. Phủ định bằng hình thức sử dụng các mô hình dành riêng
2.2.1. Dạng phủ định A trong hai mô hình A thì/là B và A bằng/như B theo cách cho B có đặc điểm mâu thuẫn với A
Thường gặp A là một khái niệm trừu tượng, B là một hình ảnh cụ thể; và cái cụ thể, sinh động của B có đặc điểm mâu thuẫn với thuộc tính cơ bản của A, khiến A bị phủ định.
Đọc một số câu cửa miệng sau:
(1) Anh, xanh cọng đỏ càng (hoặc: Eng, xeng cọng đỏ càng)
(2) Chị, cái bị ba quai.
(3) Phiền, lên cầu Trường Tiền mà nhảy.(6)
(4) To bằng trôốc bả ruồi.
(5) Đẹp như cái bẹp mụ tra.
Ba câu đầu thuộc mô hình A thì/là B. “Cọng” và “càng” (người địa phương thường dùng để nói về cua, ghẹ) nếu thuộc vào một chỉnh thể (con cua, ghẹ), là cùng màu: khi còn sống cua, ghẹ có màu xanh, khi luộc chín ngả sang màu đỏ. “Xanh cọng đỏ càng” là sự trái lẽ, bất thường. Nó chỉ ra tính chất hai mặt, sự thiếu nhất quán. Làm anh mà lá mặt lá trái trong quan hệ với em, thì không còn là anh nữa (1). “Bị” dù to đến mấy cũng chỉ có hai quai. “Bị ba quai” là không bình thường, không có trong thực tế. Chị mà là/như “cái bị ba quai”, thì đó là người chị quái đản, thứ bỏ đi (2). “Lên cầu Trường Tiền mà nhảy” là một kiểu tự tử không phải sợ bị cứu sống, bởi nếu không chết vì gãy xương, thì cũng chết vì ngạt nước. Do tính chất “dữ dội” của kiểu chết này mà hiếm ai lại “nhảy” như vậy. Buồn phiền là chuyện bình thường của kiếp người, thuộc thất tình lục dục sinh ra, nếu hễ phiền là đi “nhảy” thì e trái đất không còn bóng con người. Tức chuyện “lên cầu Trường Tiền mà nhảy” là vô duyên, vô lối. Mà đã không thể nhảy thì cũng chớ nên phiền (“phiền” bị phủ định) (3).
Hai câu cuối thuộc mô hình A bằng/như B. “Trôốc bả” là bắp đùi, vế chân. Vế chân của ruồi chỉ nhếch hơn sợi lông một tí. To bằng thứ vừa nói, với cái nhìn của mắt thường, thật ra, là rất nhỏ. Khái niệm “to” (thường dùng để chỉ chức vụ của người được nói đến) bị hạ bệ (4). “Cái bẹp mụ tra” không mấy ai cho là đẹp. Đẹp như cái ấy thì rõ là… xấu! (5). Như vậy, tuy nói “to”, “đẹp” nhưng đồng thời cũng sử dụng những biểu hiện (có thể coi là minh họa cụ thể) đối nghịch, nhằm phủ định ngay, khiến chúng thực sự trở thành nhỏ, xấu.
Có thể dẫn thêm một số câu tương tự:
– Chị em, mắm nem ba đồng (câu cửa miệng);
– Ăn mà đẻ ông bộ(7) cho làng nhờ (câu cửa miệng);
– Bà con bắn súng canh nông không thấu (câu cửa miệng);
– Tội, lội xuống sông, mai mốt có chồng thì lội mà lên (đồng dao);
– Em khôn, em ở trong bồ; chị dại, chị ở kinh đô chị về (ca dao);
– Phen này quyết chí buôn to: buôn trấu dấm bếp, buôn tro trồng hành (ca dao);
– Nào ai hiếu nghĩa như anh: khi đau thì vắng, khi lành viếng thăm (ca dao);…
2.2.2. Dạng phủ định đặc biệt: mô hình Lo + A (A: một sự vật, sự việc hiển nhiên).
Mô hình Lo + A được cho là dạng đặc biệt, bởi tính chất cụ thể nhưng lại được sử dụng khá rộng rãi của nó. A về mặt ngữ pháp, có vai trò làm bổ ngữ (cho “lo”), về mặt ngữ nghĩa, nhằm biểu thị một sự vật, hiện tượng hay sự việc có tính chất hiển nhiên. Lo về một điều hiển nhiên là lo hão, lo một cách vô lối. Tức phủ định việc lo.
Thí dụ:
– Lo bò trắng răng.
– Lo trâu không có hàm trên.(8)
Ca dao có hẳn một bài “Mười lo” theo thể lục bát, mỗi dòng thơ thể hiện một mô hình Lo + A, dưới đây:
Một lo em bé trắng răng,
Hai lo người thấp không bằng người cao.
Ba lo thầy bói té rào,
Bốn lo con đĩ miệng chào khách buôn.
Năm lo thợ đúc có khuôn,
Sáu lo kẻ ở trên nguồn gian nan.
Bảy lo bà góa chửa hoang,
Tám lo dân làng hết gạo đi xâu.
Chín lo biển rộng hơn cầu,
Mười lo bà vãi trọc đầu khó coi.
3. Có thể còn một số hình thức phủ định khác được tìm thấy trong phương ngữ Huế, chẳng hạn: “Có chộ mặt ngang mặt dọc chi mô”, “Ai, ông cai bến đò, ông cò Dạ Lê, ông Kê An Cựu…”, “Biết có sống đặng đến mai mà để củ khoai đến mốt”, “Học chi mà học: học chọc bát cơm, học đơm cơm cháy, học cạy thủng nồi”, “Không mợ thì chợ cũng đông; mợ đi trong Quảng ai trông mợ về!”,… Nhưng chúng mang tính cá biệt, thiếu sự thu hút để có thể tạo nên những tập hợp hay chuỗi cùng loại. Do vậy, các miêu tả ở trên tiêu biểu hơn.
Bài viết thuộc một lĩnh vực nhỏ trong việc nghiên cứu về phương ngữ Huế. Tuy vậy, nó cũng phần nào cho thấy sắc thái riêng qua lời ăn tiếng nói của người bản địa, và sự thú vị đáng kể khi đối sánh với ngôn ngữ phổ thông.
Theo Tiều Nguyên (Tạp chí sông Hương)
————–
(1) Theo: Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985; tr. 91-107.
(2) Phương ngữ Bắc Bộ có một hình thức láy để phủ định: tạo tiếng láy bằng cách lấy phụ âm đầu của tiếng được láy cộng với [-iếc]: “nhà nhiếc”, “sách siếc”, “đi điếc”, “xe đạp xe điếc”, “câu lạc bộ câu lạc biếc”,…
(3) Xét mặt cấu tạo, thì đây là hiện tượng trung gian giữa từ láy và cụm từ tự do.
(4) Xông phà: Lời người thầy cúng thường dùng trong các lễ xua đuổi yêu ma, có thể hiểu như: “Cút xéo ngay!”.
(5) Theo: Triều Nguyên, Truyện cười, truyện trạng và giai thoại xứ Huế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; tr. 91, và tr. 77.
Phân tích truyện “Mệ ồn lắm”: Theo các cách láy có trước (nhiều -> bờ liều xiều xiều; ít ->bờ lít xít xít;…), thì ồn không thể là “bờ lìm xìm xìm”. Cấu trúc tạo ra cái tục, còn lời nói thì vờ “lách” đi để kiêng tránh. Đó là chỗ “đắc dụng” của truyện cười này.
(6) Ở dạng mở rộng của câu này, có người đọc: “Anh có phiền lên cầu Trường Tiền mà nhảy, muốn đạo ngãi đến mụ Trùm Chanh, muốn thương anh đến mụ Bếp Lé”, phổ biến khoảng nửa đầu thế kỉ XX.
(7) Ông bộ: người có vóc dáng nam nhưng không có bộ phận sinh dục như những người đàn ông khác, thường được ưu tiên tuyển vào cung làm thái giám (làng, tổng có thể nhờ đó mà được giảm sưu dịch, nhưng bậc làm cha mẹ thì không mấy ai lại muốn con mình như vậy).
(8) Bò thì răng trắng, trâu thì tất yếu không có hàm trên.
( http://hue.vnn.vn/vi/52/4579/Hue—Di-San/Mot-so-hinh-thuc-phu-dinh-cua-phuong-ngu-Hue.html?#.UmDXklOzMXz )
Tiếng Việt – Thơ Lưu Quang Vũ
Tại hạ không thích thuổng hay trích thơ người khác về trang hoàng blog của mình, nhưng bài này của Lưu Quang Vũ thì xin có biệt lệ …
Tiếng Việt
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.
“Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt…”
Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.
Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo, như dây đàn máu nhỏ.
Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu ?
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya ?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi! Tiếng Việt ân tình…
Lưu Quang Vũ
Tìm hiểu lớp từ cổ Việt-Hán
TÌM HIỂU VỀ LỚP TỪ CỔ VIỆT HÁN QUA CÁC CỨ LIỆU NGỮ ÂM LỊCH SỬ
(About the Viet-Han ancient words class through
the historical phonetic data)[1]
Phan Anh Dũng
Trung tâm Công nghệ Thông tin Thừa Thiên Huế
Tóm tắt:
Bài viết đưa ra bảng so sánh các từ cổ Việt-Hán trong tiếng Việt với các tư liệu phục nguyên âm thượng cổ Hán ngữ của các từ này theo các tác giả Bernhard Karlgren ( 高本漢 ), William H. Baxter ( 白一平 ) , Vương Lực ( 王力 ) … Từ đó rút ra một số nhận xét đánh giá về nguồn gốc lớp từ cổ Việt Hán này.
1. Khái quát.
Bài này tiếp tục một số bài viết trước của tác giả về mối quan hệ giữa Hán ngữ cổ đại với các ngôn ngữ họ Nam Á (Austro-Asia). Và đặt vấn đề xem xét lại nguồn gốc của Hán ngữ, phải chăng Hán ngữ có thể không phải chỉ có nguồn gốc Tạng Miến mà còn có một phần có gốc từ họ Nam-Á mà đại diện tiêu biểu là nhóm Mon-Khmer ?
Các nghiên cứu về xếp loại ngôn ngữ cho tiếng Việt đã chỉ rõ rằng, về lớp từ cơ bản tức là lời ăn tiếng nói hàng ngày thì tiếng Việt phải xếp vào họ Nam Á, nhóm Môn-Khmer, phản ánh “tiếng mẹ đẻ” của người Việt chính là tiếng nói của cư dân bản địa vùng châu thổ sông Hồng và xa hơn là miền Trung Việt Nam cổ xưa… nhưng các vấn đề như có thanh điệu phức tạp, xu hướng đơn âm hóa triệt để, kho từ vựng có nhiều từ chung chịu ảnh hưởng của họ Thái-Kadai và Hán-Tạng .v.v. thì lại cho thấy tiếng Việt có thể xếp vào họ Hán Tạng hay Thái-Kadai, đó cũng là cách phân loại của các nhà ngôn ngữ học khoảng năm 1950 về trước, chỉ sau này khi có các số liệu thống kê về số lượng từ cơ bản thì xu hướng xếp tiếng Việt vào họ Nam Á (Mon-Khmer) mới thắng thế.
Người viết cho rằng sau khi vất bỏ các yếu tố hoang đường thì truyền thuyết ghi trong sử Việt về Lạc long quân vốn là dòng dõi Thần Nông có thể phản ánh một sự thực lịch sử, đó là có một nhóm tộc thuộc thị tộc Thần Nông khoảng gần 5000 năm trước đã từ vùng Hồ Động đình dịch chuyển về phía Nam xuống vùng Lưỡng Quảng rồi đi tiếp xuống vùng đồng bằng sông Hồng khoảng hơn 4000 năm trước [2], đó là lúc đồng bằng sông Hồng vừa phát lộ trở lại sau sự kiện “đại hồng thủy” – biển tiến Flandri. Nhóm thị tộc Thần Nông này đã hợp huyết với cư dân bản địa gốc Mon-Khmer ở vùng Thanh Hóa, Hòa Bình cùng tiến xuống biển khai thác vùng đồng bằng vừa mới phát lộ. Cũng theo quan điểm của người viết thì chính cuộc thiên di của thị tộc Thần Nông (Lạc Long Quân) nói trên đã đem đến cho kho từ vựng của người Việt lớp từ “cổ Việt Hán”, lớp từ này tách biệt hẳn về thời gian tới khoảng hai nghìn năm so với lớp từ “Hán Việt” du nhập về sau trong hơn nghìn năm Bắc thuộc, nên cả người Hán lẫn người Việt bình thường (không phải người nghiên cứu về ngôn ngữ) nhìn qua thì khó hình dung ra nguồn gốc chung của chúng.
Về cội nguồn lớp từ cổ Việt Hán, xuất phát từ chỗ thị tộc Lạc Long Quân vốn là một trong các nhóm tộc Bách Việt thời thượng cổ ở lưu vực Trường Giang (phía Nam hồ Động Đình) chứ không phải nhóm Hán tộc phương Bắc ở lưu vực Hoàng Hà, nên người viết cho rằng lớp từ này có gốc Nam Á hay cận Nam Á, và có thể có pha trộn ít nhiều với họ ngôn ngữ Hán-Tạng và Thái-Kadai, vì vùng Hồ Bắc và Hồ Nam vốn là vùng bản lề tiếp xúc của các nhóm tộc Khương (phía Tây Bắc), Hán (phía Bắc và Đông Bắc) và Bách Việt (phía Đông và Nam), Thái-Kadai (Nam và Tây Nam). Các số liệu dẫn chứng dưới đây cũng cho thấy lớp từ cổ Việt Hán bảo lưu được nhiều vết tích ngữ âm cổ và gần với âm Hán thượng cổ hơn là âm Hán trung cổ, vì vậy người viết đã dùng cách gọi “lớp từ cổ Việt Hán” (đặt chữ Việt trước chữ Hán) để nhấn mạnh nguồn gốc cận phương Nam của lớp từ này.
Về sau khi có cuộc thiên di lớn về phía Bắc và “hòa hợp dân tộc” giữa nhóm thị tộc Thần Nông của Viêm Đế với nhóm Hán tộc “chính gốc” phương Bắc của Hoàng Đế ở lưu vực Hoàng Hà, lớp từ “cổ Việt Hán” này có thể đã tham gia hình thành Hán ngữ thượng cổ. Như vậy Hán Ngữ cổ không hẳn là “thuần Tạng-Miến” mà có thể có một phần pha trộn Mon-Khmer.
Về vấn đề các nhóm tộc cổ xưa ở lưu vực Trường Giang nói một thứ ngôn ngữ phương Nam, dẫn chứng mà các nhà nghiên cứu hay nhắc đến là chữ giang 江 vốn có biểu âm là chữ “công”, phù hợp với các ngôn ngữ phương Nam “krông”=”không”=”sông” … Trong bài viết dự Hội thảo nhân một năm ngày mất Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn [15] người viết cũng có dẫn ra cứ liệu cho thấy từ “địa 地”, phục nguyên âm thượng cổ theo Baxter là “djejs” có thể cùng gốc với tiếng Mon-Khmer “đây” và tiếng Việt “đất”[3]. Hơn nữa nếu dựa vào bản đồ thiên di của người thượng cổ phát nguyên từ Châu Phi như dưới đây thì các nhóm tộc ở lưu vực Trường Giang vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía bắc cách nay khoảng 1,5 vạn năm, nên việc họ nói một thứ ngôn ngữ phương Nam gần với họ tiếng Việt (Mon-Khmer) là việc khá tự nhiên (http://tieba.baidu.com/f?kz=724009126):
2. Số liệu thống kê và vài nhận xét ban đầu.
Xin xem hai bảng thống kê về lớp từ cổ Việt Hán ở phần phụ lục dưới đây, tuy chỉ là số liệu thống kê sơ bộ nhưng cũng thấy lớp từ này không phải là nhỏ, bảng 1 có hơn 250 chữ. Các số liệu đó đều rút từ tài liệu phục nguyên âm thượng cổ Hán của các nhà nghiên cứu nổi tiếng như Bernhard Karlgren[4] (高本漢 , Cao Bản Hán), William H. Baxter[5] (白一平 , Bạch Nhất Bình) , Vương Lực[6] (王力) … Lưu ý trong bảng đó chúng tôi chủ ý chọn những từ thuộc, hoặc khá gần, lớp từ cơ bản của tiếng Việt, và tránh những từ có vẻ quá gần với âm Hán Việt (âm Hán Trung cổ) để loại trừ khả năng nó là “đọc trại” của âm Hán Việt diễn ra sau khi VN đã giành lại độc lập.
Vài nhận xét sơ bộ:
- Những từ đã thống kê phần nhiều đều là những từ khá cơ bản và thông dụng của tiếng Việt.
- Số lượng từ có thể coi là “thượng cổ Việt Hán” khá lớn dầu mới chỉ thống kê sơ qua, điều đó đủ cho thấy trong tiếng Việt tồn tại một lớp từ còn lưu giữ dấu vết âm Hán thượng cổ cực kỳ xa xưa, theo người viết có thể là từ thời đại Tam Hoàng-Ngũ Đế hay giai đoạn từ Hạ tới đầu Thương.
- Từ các bảng thống kê thấy Baxter phục nguyên với nhiều tiền âm tố và phụ âm đầu kép nên chúng tôi cho rằng Baxter phục nguyên ở mức xưa hơn Karlgren và Vương Lực, có lẽ Baxter không dừng ở mức thượng cổ Hán ngữ mà đã gần tới mức proto-Tạng-Hán (tiền Hán Tạng ngữ), một số từ phải lần đến mức của Baxter mới nhận ra dấu vết tương quan với từ cổ Việt , như rồng (b-rjoŋ, k- rjoŋ), sông (kroŋ), lúa (luʔ=đạo 稻).
- So sánh tương đối trong phạm vi bảng thống kê thấy âm Việt hiện đại của các từ cổ Việt Hán có vẻ gần âm thượng cổ Hán nhất, sau đó mới đến âm Mân Nam rồi âm Quảng Đông, còn âm chính thống của tiếng Hán ngày ngay (Pinyin) lại xa âm Hán thượng cổ hơn cả. Điểm ngạc nhiên là xem trên bản đồ thì Quảng Đông gần VN hơn Mân Nam, nhưng nhiều từ cổ âm tiếng Việt có vẻ giống Mân Nam hơn Quảng Đông.
- Đối với nhóm từ “tươi, lười, tỏi” phục nguyên của 3 tác giả Karlgren, Vương Lực, Baxter đều không có -i cuối mà thống nhất là -n. Nhìn qua ví dụ đó thì tiếng Việt có vẻ như đã biến âm nhiều so với âm thượng cổ trong khi tiếng Hán (tiên 鮮, lãn 懶, toán 蒜) còn giữ khá gần. Nhưng xét kỹ hơn thấy phần biểu âm của chữ “lãn” là chữ “lại”, cho thấy chứng tích của âm cuối -i hay -j thời cổ. Theo GS Nguyễn Tài Cẩn thì thời Kinh Thi nhóm này còn gieo vần với -j , đến Đạo Đức Kinh thì chỉ còn vần với -n, gieo vần với -j còn có thể là -l, -r nhưng nói chung là -i xưa hơn cả -n.
3. Vấn đề niên đại lớp từ cổ Việt Hán:
1- Từ bảng phụ lục có thể thấy là âm tiếng Việt hiện đại của lớp từ cổ Việt Hán còn bảo lưu được nhiều ngữ âm Hán thượng cổ, thậm chí có vẻ còn gần âm Thượng cổ Hán hơn cả âm Hán Trung cổ tức âm Hán Việt định hình khoảng đời Đường.
- Ví dụ về phụ âm đầu (thanh mẫu) : nhóm từ buồng, buộc, búa, bùa, bay, buôn … còn giữ phụ âm đầu b- thời Thượng cổ, trong khi âm Hán Trung cổ đã chuyển thành f- (phòng, phọc, phủ, phù, phi, phán …)
- Ví dụ về vần (vận mẫu): các từ vốn vận bộ ca 歌 tiếng Việt vẫn còn giữ được âm cuối -i, phù hợp với vận bộ ca Thượng cổ vốn có âm cuối là -r, -l, -j. Như ngài (nga), vãi (bá), mài (ma), lưới (la), lái (đà), cái (cá), trái (tả) … Xin xem chi tiết hơn ở phần phân tích thống kê ở dưới về những từ cổ Việt Hán có âm cuối “-i” này, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn từng viết: “Ở trường hợp từ thuần Việt, tuổi của âm cuối *-i như vậy là rất cao, vì nó không những lên đến thời Việt Mường chung mà còn lên đến thời Proto Việt Chứt cách đây đã trên 3000 năm. Có thể có trường hợp -i còn có nguồn gốc xa hơn nữa …”, con số trên 3000 năm này ít nhiều gợi ý cho chúng ta mức độ cổ của lớp từ cổ Việt Hán.
2- Về đại để thì âm Hán Thượng cổ thường được hiểu là ngữ âm tiếng Hán thời Chu, tuy nhiên thời Chu dài đến hơn 800 năm, mà một số từ cổ Việt Hán có thể đến thời Tần-Hán vẫn còn giữ ngữ âm thời Chu, cho nên nếu chỉ dựa vào sự giống nhau nêu trên thì vấn đề niên đại lớp từ cổ Việt Hán vẫn còn khá mơ hồ. Để có định lượng chính xác hơn một chút, chúng tôi căn cứ vào một đoạn mà Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn viết trong sách “Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt”, trang 323: “Những tiếng cổ Hán Việt như tươi, lười, tỏi, vãi chứng minh điều đó: đây là những tiếng có âm cuối -*r hay -*l có khả năng gieo vần với những tiếng có -*j ở giai đoạn Kinh Thi, nhưng đến Đạo Đức Kinh thì chúng chỉ còn gieo vần với những tiếng có -*n. Rõ ràng tươi, lười, tỏi, vãi … đã được du nhập trước quá trình diễn biến -r > -*n, nghĩa là trước thời Tây Hán khá lâu”.
Thời Đạo Đức Kinh là khoảng 600 năm trước CN, còn thời Kinh Thi là khoảng đầu thời Chu, 1000 năm trước CN, như vậy bước đầu chúng ta đã có những con số định lượng tương đối cụ thể cho niên đại lớp từ cổ Việt Hán, việc khảo sát chính xác hơn cần có thời gian.
3- Thêm một dẫn chứng có thể quy kết về niên đại, đó là phục nguyên âm cổ của chữ “chỉ” 趾 (chân), mà chúng tôi từng đưa ra ở bài viết trước [15]. Xin tóm tắt lại như sau: chữ chỉ趾nghĩa là chân, phục nguyên âm Thượng cổ theo Karlgren: ȶi ̯əg, trong khi từ “chân” của tiếng Việt theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thời cổ vốn có âm cuối -ŋ, trong sách “Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt” trang 199 Giáo sư viết: “… chúng ta chỉ có hai ví dụ là từ chân và lên (và liên quan tới lên là từ trên). Ở hai từ này có lẽ ta phải phục nguyên *-ŋ cho thời Proto Việt Chứt, hay chậm nhất thì cũng cho thời Proto Pọng Chứt chung”. Mà Proto Việt Chứt là khoảng hơn 3000 năm trước, tức là cuối đời Thương, tại thời điểm đó đã có sự đối ứng giữa âm cuối -g của Hán ngữ với -ŋ tiếng Việt cổ, còn thấy qua việc chữ “chi” 之 (là chữ vận bộ của chỉ 趾 , cũng có phục nguyên ȶi ̯əg) trong tiếng Việt được dịch thành “chưng”. Người viết ước đoán -g khi đó thực ra không đồng nhất đồng nhất hoàn toàn với -ŋ, mà thời điểm đồng nhất có thể còn xa hơn cả nghìn năm trước, tức là ứng với giai đoạn đầu thời đại Hùng Vương, có thể khi đó âm cuối -g và -ŋ của “chỉ” và “chân” đồng nhất vào âm cuối -ʔ, giống như phục nguyên của Baxter là : tjəʔ .
4- Mức độ “vượt thượng cổ” của lớp từ cổ Việt Hán còn có thể thấy ở một từ đặc biệt, đó là từ thoát 脫 (lọt):
Chữ Hán | Karlgren | Vương Lực | Baxter | Cổ Việt | HánViệt | pinyin |
(Đường âm) | ||||||
脫 | t’wɑt | thuat | hlot | lọt | thoát | tuo1 |
Nếu ai còn nghi ngờ việc phục nguyên của Baxter thì xin xem thêm tài liệu [9] của chính người TQ, cũng phục nguyên âm thượng cổ Hán của 脫 là *hluat và còn cho cả âm Proto Tạng-Miến của nó là *g-lwat như hình dưới, chụp từ tài liệu [9], tài liệu này cũng ủng hộ nhận xét của chúng tôi là Baxter đã phục nguyên rất xa, tới gần thời Proto Hán-Tạng:
4. Vấn đề nguồn gốc lan truyền lớp từ cổ Việt Hán:
Khoảng thời gian 1000-600 năm TCN tạm định ra ở mục trên tách xa hẳn với thời Bắc Thuộc, vậy những từ cổ Việt Hán truyền vào Việt Nam qua đường nào ? Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có đưa ra cách giải thích là nhiều từ gốc Hán người Việt mượn gián tiếp qua Thái-Kadai, ở trang 322 “Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt” Giáo sư viết : “Các từ như ngan, bừa, cuốc, vãi, phân, bánh, mùa, cam, quýt, tỏi, ao, đầm, chèo… cũng đều có thể là từ gốc Hán; nhưng rất có thể chúng được du nhập vào ngôn ngữ Việt-Mường thông qua Thái-Kadai”. Tuy nhiên các cứ liệu di truyền học Y-ADN mới công bố gần đây lại cho thấy các chỉ số di truyền Y-ADN của người Việt khá xa với nhóm Tày-Nùng ở biên giới Việt-Trung mà lại gần với người Hán Quảng Đông, Quảng Tây và nhóm Choang ở vùng Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây, phía bắc sông Châu Giang. Cho nên người viết đi đến nhận định rằng lớp từ cổ Việt Hán đó là của tổ tiên người Việt truyền lại từ rất xưa, nhiều từ gốc gác có thể trước cả thời Chu nữa, chứ không phải là mượn của Hán ngữ gián tiếp qua Thái-Kadai, và với mức cổ như thế thì cũng không thể nói là mượn của Hán tộc nữa, chẳng qua là quan hệ cùng một gốc xuất xứ thôi. Khoảng 1000-600 năm TCN tức là trước giai đoạn Bắc thuộc khá lâu nên khó có thể cho là người Việt “học” lại người Hán lớp từ này trong thời Bắc thuộc rồi đọc trại đi như ý kiến của một số người.
Từng có giả thuyết cho rằng người Việt (Kinh) vốn từ vùng trung Việt hay trung Lào tiến ra xâm chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ của dân Thái-Kadai, hòa trộn với Thái-Kadai và sau đó đã học nghề trồng lúa cùng với nền văn minh nông nghiệp của dân Thái-Kadai… từ đó nhận định rằng nhóm Thái-Kadai mà đại biểu hiện nay là người Choang, Tày, Nùng mới đúng là cư dân cổ xưa ở vùng đồng bằng sông Hồng chứ không phải dân Kinh. Nhưng niên đại của sự kiện trên có thể khoảng 3500 năm trước[7], tức là rất xa xưa, trước thời Bắc thuộc đến ngàn rưởi năm, trước cả lúc hình thành nền văn minh trống đồng của các nhóm tộc Lạc Việt, nên không thể tách rời người Việt (Kinh) khỏi nền văn minh Lạc Việt cổ với thể hiện tiêu biểu là trống đồng được. Sau đây là vài số liệu so sánh ngôn ngữ về các từ liên quan tới nghề nông giữa hai nhóm Việt-Mường và Thái-Kadai (gồm Tày và Thái đen là hai nhóm Thái-Kadai có địa bàn cư trú tiếp giáp với người Việt) cho thấy giả thuyết trên có điểm đáng ngờ:
Tiếng Việt | Tiếng Mường | Tiếng Tày | Thái đen | Tiếng Hán | Chữ Hán |
Trâu | Tlu | Vài | Quãi | Thủy ngưu | 水牛 |
Bò | Mò | Mò | Ngúa | Ngưu | 牛 |
Cày | Cằl | Thay | Thay | Canh | 耕 |
Bừa | Pừa | Phưa | Ban | Sừ | 耡 |
Ruộng | Nà | Nà | Nã | Điền | 田 |
Mạ | Mã | Chả | Cả | Miêu | 苗 |
Lúa | Lõ | Khẩu | Khảu | Hòa, Đạo | 禾稻 |
Thóc | ? | Khẩu | Khảu | Đạo, Mễ,Cốc | 稻米穀 |
Gạo | Cảo | Khẩu | Khảu | Mễ, Cốc | 稻米穀 |
Rơm | Thóc | Vàng | Phưỡng | Đạo can | 稻杆 |
Rạ | ? | ? | Phưỡng | Đạo can | 稻杆 |
Nhận xét bảng trên:
1- Các từ căn bản liên quan tới nghề trồng lúa tiếng Việt khác nhóm Thái-Kadai nhiều.
2- Tiếng Việt có các từ phân biệt rất chi tiết từ cây mạ cho tới cây lúa, hạt thóc, hạt gạo, rơm, rạ … trong khi Thái gọi chung thóc, lúa, gạo là “khảu”, gọi chung rơm, rạ là “phưỡng”. Tiếng Việt cũng có từ riêng “nghé” để gọi trâu con, còn bò con có tên riêng là “bê”.
3- Con trâu là đầu cơ nghiệp nhà nông nhưng tiếng Việt “trâu” hay tiếng Mường “tlu” lại khác hẳn tiếng Thái đen “kvai” (quãi) và tiếng Tày “vài” (còn đọc là “hoài”), còn con bò tiếng Việt (hay mò tiếng Mường) cũng khác hẳn tiếng Thái đen “ngúa” (có lẽ ngúa cùng gốc với ngưu của nhóm Hán-Tạng ?). Trong lúc đó người Di tận Quý Châu TQ lại gọi con bò là “lɯ” khá giống với tiếng Việt Mường cổ gọi con trâu là “t-lu” … Người Di có thể từng là cư dân cổ xưa vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, trong đó có vùng Tương Giang ở Hồ Nam từng được các nhà nghiên cứu TQ gọi là “Cổ Lạc Việt chi địa”, người Di cũng là một trong số ít tộc gốc Hán Tạng nhưng lại có một phần M88, là nhóm nhiễm sắc thể Y-ADN đặc trưng của người Kinh.
4- Người Tày gọi con bò là “mò”, gọi bừa là “phưa”, gần giống tiếng Mường (là lưu ảnh của tiếng Việt cổ) nhưng có thể chính Tày đã mượn của Việt – Mường, vì so sánh thì Thái đen (ở vùng Tây Bắc VN, vốn từ Vân Nam thiên di xuống) gọi bò là “ngúa”, bừa là “ban”, có lẽ đó mới đúng là từ gốc Thái-Kadai.
5- Đặc biệt thú vị là vấn đề từ nguyên của cày/canh:
Từ “cày” trong tiếng Mường là “cằl” (theo từ điển Mường-Việt, Nguyễn Văn Khang chủ biên). Tiếng Việt không phát âm được phụ âm cuối -l nên ký âm “cằl” thường bị đọc ra “cằn”, nhưng xét cấu âm thì có lẽ “cằl” gần với “cănh” hay “canh” hơn, tức đọc gần giống từ Hán Việt “canh 耕” cũng có nghĩa là “cày” (Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn cho biết có nhiều từ tiếng Việt có âm cuối -i, -y vốn gốc từ âm cuối -r, -l, -j tiếng tiền Việt-Mường). Nếu dựa theo các vết tích khảo cổ về nghề trồng lúa ở đồng bằng Bắc Bộ từ cả ngàn năm trước Công nguyên và hiện tượng là tiếng Việt không có từ nào khác thay thế cho “cày” cả thì phải mạnh dạn đặt giả thuyết cằl/cày là một từ mà tổ tiên Việt-Mường đã truyền lại từ thời xa xưa, trước thời kỳ Bắc Thuộc rất lâu, chứ không phải Việt-Mường mới đi mượn từ “canh” của Hán tộc sau khi bị đô hộ rồi đọc trại ra “cằl” rồi thành “cày”, và càng không phải là tiếp thu từ “thay” của nhóm Thái-Kadai.
Về nguồn gốc phương Nam của “canh”, “cằl”, “cày” tạm thời chưa bàn sâu vì vấn đề này dễ gây tranh cãi lạc đề. Tuy nhiên cũng phải nói thẳng ra rằng thời đại “Thần Nông”, ông tổ nghề trồng lúa, vốn cũng chỉ là truyền thuyết, chưa có cứ liệu khoa học chắc chắn nào chứng minh thị tộc Thần Nông là gốc Hán tộc ở Hoàng Hà, là gốc Khương ở Tứ Xuyên hay là gốc Bách Việt ở Trường Giang cả. Còn nếu đơn thuần căn cứ vào vị trí địa lý của lăng Viêm Đế thì lăng này ở huyện Viêm Lăng, tỉnh Hồ Nam, phía đông nam Hành Dương thị khá xa về phía nam của hồ Động Đình, lại nằm ngay trong vùng đất “Cổ Lạc Việt chi địa”, rất xa với vùng lưu vực Hoàng Hà, cội nguồn của Hán tộc. Vùng Tương Giang “Cổ Lạc Việt chi địa” này vốn là đất “man di”, mãi đến khoảng thế kỷ 3-4 trước CN mới bị nước Sở thôn tính, rồi sau đó nhập vào TQ thời Tần, Hán [8].