THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN
THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN
0.Đặt vấn đề:
Trước hết thử xác định lại nguồn gốc người “Hán” hay “Hoa Hạ”.
Tham khảo bản đồ thiên di của nhân loại ở châu Á, tài liệu gốc từ Đại học Yale, Hoa Kỳ [i] :

Theo bản đồ này, người cổ đại đến lục địa Trung Hoa gồm 2 nhánh chính: Một nhánh [I] thiên di sớm từ đồng bằng sông Hồng tới đồng bằng Trường Giang khoảng 1.5 vạn năm trước, rồi đi tiếp đến vùng cửa sông Hoàng Hà khoảng 1 vạn năm trước. Một nhánh [II] muộn hơn, từ Miến Điện băng qua sườn đông Hy Mã Lạp Sơn đến cao nguyên Tây Tạng khoảng 1.5 vạn năm trước, rồi cũng đến lưu vực Hoàng Hà khoảng 8 ngàn năm trước.
Theo một số thông tin thảo luận chưa được kiểm chứng trên mạng[ii] thì Hán tộc vốn là “hòa hợp”của nhiều nhóm tộc, trong đó hai nhóm chính là nhóm thị tộc Hoàng Đế vốn gốc ở Hoàng Hà, theo ngôn ngữ Tạng-Hán nên chắc là bắt nguồn từ nhánh [II], và nhóm kia là thị tộc Thần Nông (Viêm Đế) vốn gốc ở Trường Giang, chắc bắt nguồn từ nhánh [I], ngoài ra còn có các nhóm tộc khác như thị tộc Cửu Lê của Xi Vưu cũng tham gia một phần vào cuộc hòa nhập này, số không chịu hòa nhập thì chạy lên vùng núi thành người Miêu, Dao hiện nay.
Trong bài này người viết muốn đặt vấn đề: phải chăng nhóm Bách Việt chính là nhóm [I] vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía Bắc hơn vạn năm trước đã đem vốn từ gốc phương Nam đóng góp vào Hán ngữ. Dưới đây là một số dữ liệu bước đầu tìm hiểu các vết tích ngôn ngữ phương Nam còn tồn tại trong tiếng Hán và chữ Hán.
1. Bắt đầu từ cặp từ Hà/Giang (河/江)
Nhiều tài liệu ngôn ngữ học đều thống nhất cho rằng từ giang 江 (nghĩa là sông trong tiếng Hán) có nguồn gốc phương Nam.
-Trước hết từ này vốn do nhóm Bách-Việt ở phương Nam (tạm gọi là Hán-Việt để phân biệt với nhóm Hán-Tạng), dùng để gọi sông Trường Giang (hay sông Dương tử), đối lập với các nhóm Hán-Tạng ở phía bắc thường gọi sông là “Hà” (như Hoàng Hà).
-Phần biểu âm của giang 江 vốn là chữ công 工, âm cổ “công” này hiện vẫn còn bảo lưu trong tiếng Quảng Đông [粤语], ghi âm đọc là “gong1” (TQ thường ký âm k- ra g-) như trong link sau : http://tool.httpcn.com/Html/Zi/28/PWMEMEILKOTBCUYF.shtml
-

-Giang vốn thuộc thanh mẫu kiến 見, vận mẫu giang 江, nhị đẳng, thiết âm trung cổ theo Đường Vận, Tập Vận, Vận hội là cổ song thiết (古雙切) tức âm “cong”. Vần ong/ông đã chuyển thành iang/ương muộn nhất cũng từ trước thời Trung nguyên âm vận (Chu Đức Thanh, năm 1324) vì trong sách đó đã chính thức xếp giang vào 1 nhóm chung với từ khương 姜, cương 疆…xem minh họa trong sách đó ở hình bên, (theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đại Cồ Việt thì thực ra quá trình biến âm này xảy ra sớm hơn, khoảng trước đời Đường).
-Gốc của 江theo nhiều nhà nghiên cứu có thể là krong/không/sông trong các ngôn ngữ phươngNam. Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Bernhard Karlgren, Vương Lực, William H.Baxter tái lập âm thượng cổ của nó lần lượt là ku ̆ŋ , keoŋ , kroŋ. Hãy chú ý tái lập của Baxter “krông”, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên Việt Nam hiện nay vẫn gọi sông là krông, có lẽ là bảo lưu từ thời thượng cổ, ví dụ Krông Pha tức thị trấn Sông Pha ở Ninh Thuận, lại còn có các huyện Krông Năng, Krông Ana,Krông Bông… ở Tây Nguyên.
-Con sông lớn Mekong hay “Mè Khỏng” trong ngôn ngữ Thái-Lào vốn có nghĩa là “sông mẹ”. Người Mường hiện vẫn gọi sông là “không”. Tiếng Việt tuy đã biến đổi khá xa thành “sông”, nhưng vẫn còn vết tích trong sách “An Nam dịch ngữ” thời Minh (thế kỷ15) ghi chép rằng “hà 河” tiếng Việt là “không 空”, ngoài ra sách đó lại ghi “giang 江” tiếng Việt là “sanh 生”, có lẽ chính là âm “sông”, vì âm Nôm của “sanh” là “sống”, tư liệu này cho thấy khả năng người Việt thời đó tuy đã đọc với phụ âm đầu “s-” nhưng vẫn còn giữ dạng đọc với phụ âm đầu “kh-” .
2. Xem xét tiếp cặp từ Thổ/Địa (土/地)
Các khảo sát về cặp từ đồng nghĩa Hà/Giang (河/江) đã gợi ý cho người viết bài này phải chăng cặp từ Thổ/Địa (土/地) cũng có nguồn gốc tương tự, nghĩa là Thổ có gốc Hán-Tạng phương Bắc, còn Địa 地 vốn có gốc Hán-Việt ở phương Nam ?
-Trước hết căn cứ vào chữ viết thì thấy chữ thổ phải có trước chữ địa vì chữ địa 地 được ghép từ chữ thổ 土 chỉ nghĩa với chữ dã 也chỉ âm, nên có thể ước đoán “địa” mới phổ biến trong tiếng Hán về sau khi các nhóm Hán-Tạng bành trướng về phía Nam, xâm lấn và “hòa nhập” với các nhóm gốc Hán Việt. Để kiểm tra ước đoán này người viết đã mở sách Kinh Thi ra đếm thử trong các bài thì thấy chỉ có 2 chữ địa, trong khi dùng đến 31 chữ thổ (!)
-Theo đối chiếu Việt – Mon – Khmer trong sách của Nguyễn Ngọc San “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử”thì chữ ĐAI nghĩa là đất trong Tiếng Việt (có trong từ “đất đai”) vốn có gốc từ tiếng Khmer “đây”.
-Bây giờ xét phục nguyên âm thượng cổ của địa 地 theo các nhà ngôn ngữ học:
oKarlgren là d’ia
oVương Lực là diai
oBaxter là djejs
Chúng ta thấy :
Âm do Baxter phục nguyên “đjêy” khá gần với tiếng Khmer gọi đất là “đây”.
Âm do Vương Lực phục nguyên “đjai” thì gần với tiếng Việt “đai” nghĩa là đất .
- Âm Quảng Đông, TQ gọi là Việt ngữ 粤语, của địa có một dạng là dei6, rõ ràng khá gần với “đây” Khmer và “đai” tiếng Việt[iii].
Nhân tiện xin trích dẫn một bài trong “Quốc Âm Thi Tập” thời Lê (khoảng cuối thế kỷ 15) đã dùng chữ “đai” một cách độc lập, không phải đi theo “đất” :
Giàu chỉnh chện, khó lai dai,
Vần chuyển lưu thông, há của ai ?
Vũng nọ ghe khi làm bãi cát,
Doi kia có thuở lút hòn ĐAI.
Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng,
Dại dột nào hay tiểu có đài ?
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi ?
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai.
3. Xem xét tiếp cặp từ Túc/Chỉ (足/趾)
Người viết cho rằng đây cũng là một cặp đối lập Bắc/Nam, trong đó “chỉ” là một từ gốc phương Nam, cùng nguồn gốc với từ “chân” của tiếng Việt. Xét bảng so sánh âm Thượng cổ phục nguyên của một số chữ Hán sau :

Qua bảng trên người viết nhận thấy có một lớp từ mà Karlgren khôi phục với phụ âm cuối –g có sự đối ứng khá hệ thống với các từ đồng nghĩa của tiếng Việt mang phụ âm cuối –ŋ[iv].
Hình minh họa lấy từ sách của Karlgren [2] :

Hiện tượng ở tiếng Việt một số từ âm cuối –g thời thượng cổ có thể đã biến chuyển ra –ng, là những trường hợp khá “đặc dị” ít người nhận ra.
Như chữ “hỉ” âm cổ có thể là “hửng” (trong từ hí hửng) phù hợp với phục nguyên âm Hán Thượng cổ theo Karlgren là “xi ̯əg” (đọc gần như hưâg=hửng) sau đó -g biến ra -i (“xji” trong hình minh họa trên) nên ta có “hưâi” ứng với chữ “hởi” (trong từ hồ hởi), sau đó lại du nhập thêm âm “hỉ” trong thời Bắc thuộc. Thật may mắn cả 3 âm Hửng, Hởi, Hỉ đều còn tồn tại trong tiếng Việt giúp khẳng định quá trình biến âm mà Karlgren phục nguyên là có thật. Ví dụ khác là chữ “tự 似”= “tương tự, dường như”, Karlgren phục nguyên âm thượng cổ “dzi ̯əg” khá gần với chữ “dường” của tiếng Việt, dạng rụng phụ âm cuối “-ng” là “dựa” thì hiện nay không còn lưu, chỉ còn “tựa” (tự như); nhưng “tựa” với nghĩa động từ “tựa vào” thì tiếng Việt vẫn còn giữ âm “dựa”.
Chữ vụ 霧,Karlgren phục nguyên mi ̯ug , nếu chuyển -g=>-ŋ thì khá gần âm “mồng” tiếngViệt (vân mồng=mây mù), đồng thời tiếng Việt còn giữ cả âm trung gian là “mù”, là âm thông dụng ngày nay.
Đặc biệt, theoKarlgren chữ “chỉ 趾“và “chi 之“đều được phục nguyên âm thượng cổ là ȶi ̯əg . Âm thượng cổ này giải thích vì sao người Việt lại đọc “chi 之” là “chưng”, còn “chỉ 趾” là “chân”, giọng miền Nam là “chưn” hay “chưng”. Theo tài liệu Giáo trình Lịchsử ngữ âm tiếng Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì từ “chân” thời cổ vốn có âm cuối -ŋ, trích trang 199 sách trên:
“… chúng ta chỉ có hai ví dụ là từ chân và lên (và liên quan tới lên là từ trên). Ở hai từ này có lẽ ta phải phục nguyên *-ŋ cho thời Proto Việt Chứt, hay chậm nhất thì cũng cho thời Proto Pọng Chứt chung.”[v]
Cũng theo tài liệu của GS Cẩn thì thời Proto Việt Chứt tức thời Việt-Katu là trên 3.000 năm trước. Vậy khả năng phục nguyên “ȶi ̯əg” của “chỉ 趾”gần với từ cổ Việt “châŋ”, phải ứng với niên đại trên 3000 năm trước, tức ứng với cuối đời Thương của TQ, kết quả cũng giúp chúng ta có ước lượng khái quát về niên đại (mức cổ xưa) của cả nhóm từ liệt kê trong bảng, đó là những từ cổ Việt-Hán chứ không phải từ Hán-Việt du nhập thời Bắc Thuộc.
Chú thêm: Khả năng một số chữ Hán hiện đọc với vần “-i” thời cổ xưa đọc là “-ưng” còn vết tích khá rõ ngay cả trong Hán Ngữ, như chữ nghi 疑có một nghĩa trùng với chữ ngưng 凝, mà lại chung bộ phận biểu âm. Theo Karlgren âm thượng cổ của nghi là ŋi ̯əg còncủa ngưng là ŋi ̯əŋ, như vậy có thể đã tồn tại 1 xu hướng biến âm ở Hán Ngữ (nhưng ít còn lưu tích) là -g thượng cổ về sau chuyển thành -ŋ. Xu hướng này ở tiếng Việt có vẻ rõ rệt hơn, ví dụ chữ “vị 彙”người Việt vẫn quen đọc là “vựng”, mà tra các từ thư Trung Quốc thì không hề thấy ghi âm “vựng” này !
4. Xem xét tiếp cặp từ Xã/Lý (社/里)
Cũng trong thế đối lập trên,người viết dự đoán Lý 里(làng) là từ gốc phương Nam đối lập với Xã, và cùng gốc với cả hai từ “làng” và “chiềng” của tiếng Việt. Trong bảng phục nguyên âm thượng cổ ở trên Karlgren phục nguyên Lý 里là li ̯əg, mà phần trên đã chỉ ra khả năng –g có thể biến chuyển thành –ŋ trong tiếng Việt nên chúng ta có li ̯ə-ŋ đọc gần như lưâng hay lương, từ đó chuyển sang lang/làng không còn xa (so sánh phần vần của các cặp từ đương/đang, nương/nàng, trường/tràng…).
Sách Thuyết văn giải tự chú chữ Lý như sau: 里,[良止切],居也。从田从土。凡里之屬皆从里。Lý, [lương chỉ thiết], cư dã, tòng điền tòng thổ, phàm lý chi thuộc giai tòng lý.
Chú ý chiết tự của chữ Lý “trên điền dưới thổ” và nghĩa gốc là cư trú, thể hiện rõ nguồn gốc nông nghiệp của chữ này, cũng là của thị tộc Thần Nông vốn gốc ở vùng Trường Giang.
Nhân tiện bàn thêm: Âm cổ xưa của “làng” có lẽ chính là “chiềng”. Đi từ phục nguyên âm thời cổ li ̯ə-ŋ ta thấy phần vần vốn gần với “iêng”, còn việc phụ âm đầu l- có thể đọc ra ch- thì chúng ta có khá nhiều ví dụ: lạp/chạp, lang/chàng, lam/chàm, lồng/chuồng .v.v. So sánh xa hơn thì có cặp lải/chài (lải nghĩa là “lưới” trong tiếng Mường) mà phục nguyên âm cổ của chữ la 羅 tức là lưới trong tiếng Hán theo Vương Lực là “lai”, nếu không kể dấu thanh thì trùng khớp với tiếng Mường. Để thấy rõ hơn quan hệ giữa L- và CH- xin xem các cứ liệu phục nguyên âm thượng cổ theo Baxter:
臘(lạp/chạp) : c-rap
朗(lang/chàng) : c-raŋʔ
籠(lung/lồng, chuồng): b-rong
藍(lam/chàm) : g-ram
里(lý/làng, chiềng) : c-rjəʔ
羅(la/lưới, chài): c-raj
Và so sánh thêm tiếng Việt với tiếng Katu (phản ảnh của Proto Việt-Chứt):
Chrum = chồm lên
Chréh = chẻ (củi)
Chraih= chải (tóc)
G-roong= (cái)chuồng
Như vậy có mối tương quan giữa tổ hợp âm đầu C-R- (CHR-) và G-R- của Hán ngữ cổ theo Baxter, với CH- trong tiếng Việt cổ, vì lần ngược tới giai đoạn Việt-Katu thì thấy một số trường hợp CH- Việt vốn là CH-R hay G-R-.
Theo GS Nguyễn Tài Cẩn *R- trong Hán ngữ mới chuyển thành L- khoảng thời Tần-Hán, còn bên phía tiếng Việt thì dựa trên ví dụ về từ “chuồng” trong tiếng Katu người viết phỏng đoán G-R- có xu hướng chuyển thành CH- từ khá sớm, vì phụ âm CH- của tiếng Việt vốn có từ cổ xưa ít ra là thời proto Mon-Khmer[vi], nên khi tiếng Việt xảy ra xu hướng đơn tiết hóa thì tổ hợp G-R nhập vào CH- khá thuận lợi.
5. Về cặp từ Nội/Trung (內/中)
Trung tức là “trong” tiếng Việt, phục nguyên âm Hán thượng cổ của Baxter cho chữ TRUNG 中 là “k-ljuŋ”.
Bây giờ thử so sánh với từ tương đương trong tiếng Việt là “trong”: chữ Nôm trong sách “Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh” (viết tắt PT) ghi bằng chữ Hán công 工 ứng với âm cổ “cong”, theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì bản gốc diễn nôm PT có thể ra đời từ rất sớm, ngay thời Lý, “công/cong” có thể là cách ghi âm Việt cổ của “klong”, gần với phục nguyên của Baxter.
Tiếp tục tìm hiểu thêm một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong họ Mon-Khmer: tiếng Vân Kiều thì trong là “klống” (theo “Tiếng Bru-Vân Kiều”, Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, NXB KHXH, Hà Nội 1998, trang 322), tiếng Katu thì trong là “kơrloóng” (“Từ điển tiếng Cơ Tu –Việt, Việt – Cơ Tu”, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007, trang 112). Các dạng trên cũng đều khá gần với phục nguyên âm Hán thượng cổ của chữ Trung 中 theo Baxter. Mà chúng ta biết là vùng cư trú của hai nhóm tộc Katu, Vân Kiều từ Quảng Bình trở vào vốn tách khỏi cai trị của TQ từ rất sớm, khoảng thời Khu Liên lập nước Lâm Ấp năm 192. Có thể nói thực sự họ chưa bao giờ ở trong vòng kềm tỏa của phong kiến TQ, vì họ cư trú trên các vùng núi cao hẻo lánh. Ngay cả sau này vào các đời “thịnh trị” của chế độ phong kiến Việt Nam thì các vùng núi cao như Sơn La, Lai Châu… vẫn theo chế độ phụ đạo, các “khun”, “tạo” thủ lĩnh người dân tộc vẫn là “vua” trong lãnh địa của mình, nên ít chịu ảnh hưởng ngôn ngữ văn hóa của người Việt. Còn chính người Việt thì chỉ quen ở đồng bằng, hiện diện rất ít ở các vùng đó, chỉ từ sau 1954 và 1975 mới có chuyện người Việt ồ ạt lên các vùng cao “khai thác”…. Vì vậy rất khó tin là hai nhóm dân tộc thiểu số trên đã vất bỏ một từ rất gần lớp từ cơ bản của mình để dùng từ “trung” của người Hán vào thời Bắc thuộc ngắn ngủi 3 thế kỷ của vùng đất trên, truyền qua trung gian là người Việt. Giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ “trung” là một từ gốc phương Nam, vốn là từ rất cổ còn bảo lưu trong tiếng Hán giống như từ Giang=Sông. Xin nhấn mạnh đây chỉ là một giả thuyết mang tính cá nhân, chắc nhiều nhà nghiên cứu sẽ không đồng tình, vì nguồn gốc chữ Trung có vẻ khá phức tạp, giả định đó là một từ cổ khoảng trên 6.000 ngàn năm trước, lúc một dải Trường Giang về phía nam còn nói chung một thứ ngôn ngữ cổ là ngôn ngữ Nam Á (theo“Tìm hiểu tiếng Việt Lịch sử”, Nguyễn Ngọc San, NXB ĐH SP, Hà Nội 2003, trang14), với mức xa xôi như thế thì có thể khi đó hai nhánh ngôn ngữ proto Môn-Khmer với ptoto Miến-Tạng còn chưa tách xa nhau nhiều, nên rất khó để nói về việc “ai mượn của ai”.
6. Sơ kết
Giả thuyết về nguồn gốc phương nam của một số từ Hán ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Nam Á, chính do các nhóm tộc Bách Việt vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía Bắc đóng góp vào Hán ngữ là một giả thuyết do tác giả bài này đề xuất, hiện chưa có thông tin về ý kiến tương tự của các tác giả khác hay của các nhà nghiên cứu tiền bối [vii]. Bài này bước đầu đã đưa ra được một số cứ liệu ngôn ngữ học so sánh nhằm sáng tỏ giả thuyết đó.
Gần đây có thông tin quan trọng đăng trên các trang mạng của Trung Quốc như sau: Tại khu di chỉ “Xẻng đá lớn” ở huyện Bình Quả, tỉnh Quảng Tây vừa khai quật được hơn chục mảnh đá có khắc hơn ngàn ký tự biểu ý cổ Lạc Việt. Các chuyên gia Trung Quốc nhận định niên đại của các mảnh đá này là vào thời đại đồ đá mới, cách nay 4000-6000 năm tức là vượt xa niên đại của chữ giáp cốt đời Thương ít nhất cũng hơn nghìn năm. Do đó vấn đề xác định ảnh hưởng của các ngôn ngữ phương Nam vào Hán ngữ càng trở lên có căn cứ xác đáng, cần được quan tâm nghiên cứu[viii].
[i]Bản đồ này lấy từ trang mạng http://www.tianyabook.com/qita/zhongguorencongnalilai/4.html, có ghi chú nguồn gốc “耶鲁大学李辉供图” tức là của Lý Huy Cung ở Đại học Yale, Hoa Kỳ. Như vậy có độ tin cậy hơn các tài liệu của Trung Quốc
.[ii]http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,8972,48172,quote=1
[iii]http://tool.httpcn.com/Html/Zi/23/PWPWKOPWAZUYMEKOAZ.shtml
[iv] Người viết tạm dùng tên “Cổ Việt” cho các từ tiếng Việt dẫn trong bảng trên, hiện chưa có đủ căn cứ để xác định chính xác chúng là từ Việt cổ hay phần lớn chúng là từ của tiếng Việt hiện đại, tuy nhiên nếu để ý có thể thấy ngữ âm của các từ này gần với âm Hán thượng cổ hơn Hán Trung cổ (Đườngâm)
.[v]Về nhận định của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho “chân” thời proto Việt Chứt vốn có phụ âm cuối “-ng”, có thể dẫn thêm tư liệu về tiếng Katu ở miền Tây Thừa Thiên: chân là “jung”, tức phụ âm cuối đúng là “-ng”.
[vi]Theo Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn, trang46-48, mục “Lai nguyên của CH-” thì CH- là một phụ âm cực cổ của tiếng Việt, có từ thời Proto Môn-Khmer với các từ như chó (*cuə), chấy, chết(*kacɛt), chín, chim (*cɨm) (theo G.Difflot)…
[vii]Xin tham khảo thêm loạt bài viết của tác giả Nguyễn Cung Thông về nguồn gốc của 12 con giáp và các bài sưu tầm giới thiệu các từ có thể có gốc phương Nam đã bị đào thải trong tiếng Hán trên trang http://www.viethoc.org/phorum.
====
Tài liệu tham khảo:
- 汉文典、高本汉、上海辭書出本社。1997。
- 中上古汉语音的纲要、高本汉、齐鲁书社、济南。1987
- The Austroasiatics in Ancient South China, 梅祖麟言语学论文集。商务印书馆出本。2000。
- 王力. 漢語字典.VươngLực “Cổ Hán ngữ tự điển”.
- A Handbook of Old Chinese Phonology, William H. Baxter, Mouton de GruyterBerlin – New York 1992.
- Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội.1995
- Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đạihọc Quốc gia , Hà Nội. 2000
- Về dấu vết chữ nôm kỵ húy trong sách “Phật thuyết”, Nguyễn Tài Cẩn, T/c Văn hóa Nghệ An, Số 7, 2010.
- An Nam Dịch Ngữ, Vương Lộc dịch và chú giải, nhà Xuất bản Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học. 1995.
- Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu Khoa học “Giáo trình dạy chữ Katu cho cán bộ người dân tộc”, Hoàng Huy Lập, Nguyễn Thị Sửu, Sở Giáo dục Thừa Thiên Huế, 2003.
- Từ điển Mường Việt, Nguyễn Văn Khang, Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2002.
- Tiếng Bru-Vân Kiều, Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, NXB KHXH, Hà Nội 1998.
- “Từ điển tiếng Cơ Tu –Việt, Việt – Cơ Tu”, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007.
- “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử”, Nguyễn Ngọc San, NXB ĐHSP, Hà Nội 2003.
- Các bài viết của tác giả Nguyễn Cung Thông trên http://www.viethoc.org/phorum
“Chùa Một Cột” không phải là chùa!
| Trần Trọng Dương |

Hoành phi “Liên Hoa đài” mới làm, có lẽ là
một đính chính ý nhị của thầy trụ trì chùa Diên Hựu
ngày nay (ảnh chụp ngày 06/04/2012).
Vào thời Lý, kiến trúc là Thích Ca liên hoa đài, tín ngưỡng là thờ Phật Thích Ca. Từ đời Lê về sau chuyển thành “Quan Âm liên hoa đài”, tín ngưỡng thờ Phật Quan Âm. Tuy nhiên, cần nhận định lại lần nữa, dù liên hoa đài đó đặt tượng gì đi chăng nữa thì đó không phải là chùa, mà kiến trúc một cột đó chỉ là một phần thuộc khuôn viên chùa Diên Hựu mà thôi. Các cơ quan quản lý văn hóa hữu quan nên có những điều chỉnh cho đúng sát với thực tế lịch sử. Bởi chúng ta, nếu sơ xuất ở một vài chi tiết sẽ dẫn đến nhiều sai lầm khác có tính hệ thống.
Nguồn gốc và ý nghĩa biểu tượng của “liên hoa đài”
Liên hoa đài là một dạng thức kiến trúc Phật giáo, chức năng là để sùng phụng, thờ cúng đức Phật hoặc chư vị Bồ Tát. Về mặt từ nguyên, “đài” trỏ loại công trình được xây cao, để có thể nhìn ra bốn phía (tứ vọng). “Đài sen” là dạng kiến trúc truyền thống trong các tín ngưỡng thuộc Phật giáo có mặt trong nhiều nền văn hóa Đông Á. Phật Thích Ca tọa trên tòa sen báu là hình tượng biểu trưng đa nghĩa, vốn có nguồn gốc sâu xa trong văn hóa Ấn Độ cổ đại, cụ thể là trong văn hóa Hindu giáo như sẽ trình bày dưới đây.
Trước tiên là về biểu tượng hoa sen trong Hindu giáo. Hoa sen thường được tôn vinh cùng với thần Vishnu, thần Brahma và một số vị thần khác. Nó là biểu tượng của cái đẹp thuần khiết, không chút bụi tục, nó siêu việt khỏi thế giới ô trọc. Thần Vishnu được miêu tả với “đôi mắt hoa sen” là vì thế. Các kinh điển Ấn Độ thường khắc họa hình ảnh hoa sen sinh ra từ bùn lầy tăm tối và bừng nở ngoài ánh sáng, nó được coi như biểu tượng cho sự thăng hoa của tinh thần. Tranh tượng Hindu cũng thường tô điểm hình ảnh thần Vishnu ngủ mơ màng trên lưng rắn Naga đang bồng bềnh khắp mặt đại dương sinh-hóa, từ cuống rốn của thần mọc lên một đóa sen và từ đó nở ra thần Brahma. Thần Brahma được mệnh danh là thần sáng tạo, là vị chỉ huy, quyền năng vô cùng, chính vị thần này đã điều hòa các nghiệp kiếp cho chúng sinh, và là người sinh tạo ra thế giới muôn loài…
Du nhập vào văn hóa Phật giáo, hình ảnh hoa sen cũng luôn đi liền với Bồ Tát hay đức Phật. Hoa sen là loài hoa mang biểu tượng cao quý nhất của Phật giáo. Vì hoa sen biểu trưng cho Phật tính vốn sẵn có trong mỗi chúng sinh. Khi Đức Phật đản sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni, dưới tán hoa Vô Ưu, ngài đã ung dung bước đi bảy bước trên bảy hoa sen mầu nhiệm: “Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc, Ba ngàn thế giới lễ Như Lai”. “Theo quan điểm của Phật giáo, hoa sen – Thích Ca Mầu Ni ngự trên đó – là bản thể của Đức Phật, không bị bùn lầy của samsāra tác động. Vật châu báu trong hoa sen (mani padme) là vũ trụ chứa đựng dharma (pháp), là ảo ảnh hình thức, hay là Mâyâ, mà từ đó nhô lên Niết bàn”7.
Đến đây có thể nhận định rằng liên hoa đài là một biểu tượng tích hợp các quan niệm khác nhau về thế giới trong văn hóa tâm linh cổ Á Đông. Từ Hindu giáo, hoa sen là phương tiện tạo tác ra thần Brahma, và sinh thành thế giới. Đến Phật giáo, hoa sen là loài hoa thiêng sinh ra Đức Phật và cao hơn nó là biểu tượng của Phật tính. Trong đời sống tâm linh Việt Nam qua nhiều thế kỷ, thờ Thích Ca có thể nói là tín ngưỡng từng tồn tại với những tầm mức đậm nhạt khác nhau. Với Thích Ca liên hoa đài ở chùa Diên Hựu qua ghi chép trong văn bia chùa Đọi, chúng ta biết rằng ở thời Lý, tín ngưỡng này đã lên đến địa vị tối cao, trở thành một tín ngưỡng của hoàng gia, cao hơn nữa Phật Thích Ca đã trở thành một vị thần bảo hộ quốc gia, nối dài mạch nước. Ngôi chùa có đơn nguyên kiến trúc Thích Ca liên hoa đài được đặt tên “Diên Hựu” chính là vì vậy.
Thích Ca liên hoa đài ở chùa Diên Hựu theo chúng tôi không chỉ đơn thuần là một chiếc đài dùng thể sùng phụng đức Thích Ca. Muốn hiểu đến tận cùng ý nghĩa biểu tượng của nó có lẽ chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh văn hóa Phật giáo thời kỳ này. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này sẽ được chúng tôi triển khai trong một bài viết khác.
—
* Viện Nghiên cứu Hán Nôm
1. Trần Thị Kim Anh, “Chùa Diên Hựu- Một Cột- lịch sử và biểu tượng”, Tia sáng số 7/2012. Trong bài này, tác giả cho rằng kiến trúc một cột là một dạng kinh tràng của Mật tông. Đây cũng là một giả thuyết đáng lưu ý.
2. Chuyển dẫn theo Trần Thị Kim Anh. Bđd.
3. Chuyển dẫn theo Trần Thị Kim Anh. Bđd.
4. Chính Hòa thứ mười tám (1697). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản kỷ – Quyển II, Kỷ nhà Lý. Tr.37a.
5. Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. tr.268.
Nguyên văn là “kim tướng chi Năng Nhân” nên dịch là “Phật Thích Ca Mâu Ni tướng vàng”. Sách Phạm võng kinh thuật ký ghi: “Thích Ca Mâu Ni, đại Đường phiên là Năng Tịch, trước kia phiên là Năng Mãn, cũng gọi là Năng Nhân. Thích Ca có nghĩa là Năng: tài năng, năng lực, bậc anh hùng. Mâu Ni có nghĩa là nhân, nhân từ. Cho nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn gọi là Năng Nhân”. [Kim Cương Tử (chủ biên). 1998. Từ điển Phật học Hán Việt. Nxb KHXH. Hà Nội. tr.497]. Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ dịch là “pho tượng sắc vàng” [Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). Thơ văn Lý Trần. Nxb KHXH, Hà Nội. 405]. Đỗ Bằng Đoàn dịch là “tượng Quan âm bằng vàng” [Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Nxb Văn học. 1992. Hà Nội. tr.148-151].
6. Những người trước đây từng đưa ra ý kiến tương tự với chúng tôi có lẽ là nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Chu Quang Trứ, trong mục CHÙA MỘT CỘT ông đã viết “Thực ra, chùa là một cụm kiến trúc gồm chùa Diên Hựu và Liên Hoa Đài (lâu nay thường gọi lầm là chùa Một Cột”. Ông chỉ lầm ở một điểm, đây không phải là “cụm kiến trúc” mà là một “tổng thể kiến trúc”. [Xem Hữu Ngọc (chủ biên). Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam. Nxb Thế Giới. Hà Nội. 2002. tr.162].
Xem thêm Chu Minh Khôi. Liên Hoa Đài – hồn vía Thăng Long xưa. http://giacngo.vn
7. Jean Chevalier và Alain Gheerbrant.1997. Từ điển biểu tượng văn hóa thế thế giới. Nxb Đà Nẵng. tr. 811.
Đọc thêm:
Nhân đọc bài này tại hạ có chat với lão đệ ntman:
[4/23/2012 4:45:47 PM] fanzung: Vụ “chùa” đó là cái “đài” thì huynh biết từ lúc Dương còn ở truồng, nhưng không có chỗ phát ngôn
[4/23/2012 4:46:00 PM] Nguyễn Thành Mãn: Đệ giờ mới biết
[4/23/2012 4:46:01 PM] fanzung: Mà cũng không biết phát ngôn hay như nó
[4/23/2012 4:46:07 PM] Nguyễn Thành Mãn: Té ra lâu nay báo chí viết sai
[4/23/2012 4:46:17 PM] Nguyễn Thành Mãn: huynh đọc đâu ra?
[4/23/2012 4:47:34 PM] fanzung: Dễ hiểu lắm mà. Như Chùa Thiên Mụ đó. Cứ nhìn vào các ảnh chụp giới thiệu lâu nay thì người ta cứ tưởng chùa là cái Phước Duyên Bảo Tháp
[4/23/2012 4:47:53 PM] Nguyễn Thành Mãn: À, đúng rồi (y)
[4/23/2012 4:48:10 PM] fanzung: Thực ra bảo tháp chiếm 1 mẩu so với khuôn viên cả chùa
[4/23/2012 4:49:20 PM] fanzung: chỉ là bộ phận kiến trúc, nhưng là kiến trúc đặc trưng nhất của Thiên Mụ
[4/23/2012 4:49:40 PM] Nguyễn Thành Mãn: Vâng
[4/23/2012 4:52:07 PM] fanzung: huynh từng có ý viết 1 bài giải thích về “chùa 1 cột”, nhưng huynh gọi nó là “Liên Hoa Bảo Tháp”. Chứ không phải “Liên Hoa đài” .
[4/23/2012 4:53:04 PM] fanzung: Tiếc thật. Dương hớt trước rồi ![]()
[4/23/2012 4:53:10 PM] Nguyễn Thành Mãn: Haha
[4/23/2012 4:53:18 PM] fanzung: Hậu sinh khả úy !
Nhân tiện tại hạ xin giới thiệu cái hình chùa Thiên Mụ “điển hình”, nhìn vô thì ai cũng nghĩ chùa tức là ngọn bảo tháp Phước Duyên, và chỉ có thế thôi … he he !

Suy nghĩ về Dịch thuật
Suy nghĩ về Dịch thuật
Cao Xuân Hạo (Dịch giả, Nhà ngôn ngữ học)
Năm 2004 có mấy cuộc hôi nghị về dịch thuật tâp hợp những chuyên gia có uy tín trong ngành này, phần lớn đều lấy ba tiêu chuẩn TÍN, ĐẠT, NHà làm căn cứ để thảo luận, trao đổi. Hình như phần lớn đều chỉ băn khoăn về chữ NHà – một nỗi băn khoăn mà chúng tôi nghĩ là hoàn toàn chính đáng, vì chữ NHà hình như chỉ thích hợp với một văn phong nhất định, và khó lòng có thể nói rằng “phàm là một bản dịch thì nhất thiết phải có cái văn phong được gọi là “NHÔ. Nếu nguyên bản không “nhã”, mà lại gồ ghề thô lỗ, thì bản dịch “nhã” chắc chắn là sẽ không thực hiện được chữ “tín”, và sẽ nảy sinh một mâu thuẫn đối kháng ngay trong nội bộ của tiêu chuẩn được đề ra.
Nhưng như thế vẫn chưa hết. Ngay cả chữ ĐẠT cũng có một nội dung rất khó hiểu, khiến ta phải tìm xem những người lấy chữ ĐẠT làm tiêu chuẩn, họ hiểu chữ TÍN như thế nào. Nếu bản dịch hoàn toàn trung thành với nguyên bản (TÍN), nhưng lại rất dở, trong khi nguyên bản là một kiệt tác của văn học thế giới, thì lẽ nào có thể nói rằng đó là một bản dịch trung thành? Người đọc bình thường chắc hẳn phải nẩy ra cái ý nghi ngờ rằng người đặt ra tiêu chuẩn quan niệm chữ TÍN theo cái nghĩa là“sát từng chữ”. Nhưng bất cứ người nào đã học qua một ngoại ngữ, dù chỉ trong buổi học đầu tiên, cũng đã thấy ngay rằng dịch sát từng chữ là cách tốt nhất để dịch sai hoàn toàn [i] .
Dĩ nhiên mỗi người có thể có một hay nhiều bí quyết riêng để dịch cho đúng và cho hay theo thẩm năng của họ… Và quan trọng hơn nữa là mỗi người có thể tự cho mình những cái quyền riêng trong cách hiểu, đánh giá và xử lý một văn bản mà mình chọn. Chúng tôi có biết một dịch giả nổi tiếng, có mấy mươi bản dịch được xuất bản nhiều lần, đánh giá một nhà văn như Lev Tolstoy là “chưa biết viết văn” và tự ban cho mình cái quyền bỏ từng đoạn dài mấy chục trang của tác giả, đồng thời tự cho mình cái quyền không hiểu tác giả muốn nói gì trong hàng trăm trang khác!
Trong bài này chúng tôi muốn tự bó hẹp trong phạm vi phiên dịch (translation) hiểu theo nghĩa hẹp, gạt ra ngoài mọi công trình sáng tạo, dù vĩ đại đến đâu. Vì vậy trước hết chúng tôi cố tìm một cách định nghĩa có cơ may được nhiều người thừa nhận nhất. Đó là cách định nghĩa của M. Fyodorov (1950): “Dịch là chuyển đạt một văn bản từ một ngôn ngữ này (nguồn) sang một ngôn ngữ khác (đích) một cách trung thành trong chừng mực có thể, cả về nội dung lẫn về hình thức.” Vậy, xét về lý tưởng, sự thay đổi duy nhất mà người dịch có quyền thực hiện là ngôn ngữ, là thứ tiếng mà nguyên bản dùng để biểu đạt những ý nghĩa mà mình muốn biểu đạt, và nhiệm vụ của anh ta chính là dùng một thứ tiếng khác để truyền đạt tất cả những cái gì đã được truyển đạt bằng thứ tiếng kia.
Vậy “những cái đã được truyền đạt” mà người dịch có bổn phận truyền đạt lại một cách trung thành ấy (chữ TÍN, và chỉ một chữ TÍN mà thôi!), là những cái gì? Và người dịch phải có những cách thức nào, phải thực hiện những thao tác nào để làm tròn cái bổn phận ấy? Dĩ nhiên, trả lời câu hỏi này không đơn giản chút nào, vì ngôn ngữ là một thực thể hết sức đa diện, khó lòng có thể phân tích thành một số khía cạnh hữu hạn. Sau đây chúng tôi chỉ mong kể ra những bình diện cơ bản nhất của một văn bản thông thường có thể làm đối tương cho công việc phiên dịch.
1. Thể loại
Một văn bản, dù muốn dù không, cũng phải thuộc một thể loại nhất định, và “tính thể loại” chính là cái mà người dịch phải truyền đạt trước tiên. Tôi đã từng đọc một chồng bản dịch chuyện cổ tích trong đó người dịch truyền đạt những nguyên bản dài từ 2 đến 12 trang thành những thiên tiểu thuyết dài từ 200 đến 500 trang, và rất tự hào vì đã chuyển được những chuyện cổ tích sơ sài buồn tẻ thành những pho tiểu thuyết ly kỳ hấp dẫn đầy những chi tiết tinh vi và những đoạn đối thoại sắc sảo cho thấy một vốn hiểu biết sâu rộng về tâm lý người đời, mà vẫn giữ được y nguyên cốt chuyện của nguyên bản. Dịch giả từ biệt tôi với một nỗi tuyệt vọng khôn xiết không phải đối với mấy ngàn trang tiểu thuyết của mình, mà đối với sự kém cỏi của tôi, người đã không đủ sức hiểu cái giá trị tuyệt vời của cái công trình mà ông đã bỏ ra bấy nhiêu công sức để thực hiện. Ba mươi năm sau, khi chúng tôi gặp lại, vẫn chưa có một nhà xuất bản nào đủ sáng suốt để công bố bộ sách của ông. Ai cũng trả lời ấp úng một câu vô nghĩa: “Hay thì hay tuyệt, nhưng… nó thế nào ấy, không thích hợp lắm”. Tôi trộm nghĩ: cái không thích hợp ở đây chính là tính thể loại.
2. Chuyển thể
Tôi không hề phản đối việc chuyển thể – như đưa lên sân khấu (kịch nói, kịch thơ, tuồng, chèo, cải lương) hay màn ảnh, chuyển tiểu thuyết văn xuôi thành trường ca có vần điệu, chuyển truyện ngắn thành ngụ ngôn, chuyển chuyện cổ tích thành vè hay thành vũ kịch v.v., v.v. Có những tác phẩm được chuyển thể thành công, có tác phẩm được chuyển thể không thành công bằng. Tất cả đều lệ thuộc vào tài năng và công sức của người thực hiện việc chuyển thể. Dù sao thì nhìn chung, qua việc chuyển thể khó lòng tránh khỏi tình trạng mất mát một cái gì đó trong nguyên tác, tuy không phải không có những trường hợp lệ ngoại quý giá, trong đó kết quả của chuyển thể vượt hẳn nguyên tác về giá trị nghệ thuật. Những thí dụ về trường hợp này, có lẽ bất kỳ bạn đọc nào cũng có thể tìm ra một cách dễ dàng. Xin nhắc lại một lần nữa là chúng tôi đang nói đến dịch thuật hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên không dám có tham vọng mở rộng phạm vi luận bàn sang những ngành lân cận.
3. Phóng tác
Rất gần gũi với chuyển thể công việc phóng tác, khi một người cầm bút thấy cần sửa đổi nguyên tác ít nhiều để cho tác phẩm thích hợp hơn với một đối tương nhất định, thường hẹp hơn cái đối tương mà tác giả hướng tới. Thường thường đó là đối tượng thiếu nhi. Làm việc này thường là một người lấy làm tiếc rằng một tác phẩm hay nào đó có phần không thích hợp với một công chúng lẽ ra có thể hiểu và thưởng thức nó nếu có ai căn cứ vào những đặc thù của lớp người mình đang muốn phục vụ mà cải biên lại chút ít, sao cho nó khớp với công chúng của mình. Nguyện vọng này hoàn toàn chính đáng, có thể thực hiện được và hơn nữa cũng rất cần thiết đối với những người còn phải chờ đợi một sự trưởng thành về trí tuệ mới có thể tiếp cận được một tác phẩm. Cũng xin nói rõ rằng công việc này chỉ có thể làm được với những tác phẩm văn học mà thôi, chứ đối với những tác phẩm nghệ thuật khác thì không ai nẩy ra cái ý phóng tác một bức tranh, một vở kịch câm hay một vũ kịch để cho nó thích hợp hơn với bất kỳ đối tượng nào. Vì một lẽ giản đơn: việc đó không thể nào làm được.
Còn như một loại tác phẩm quan trọng đối với mọi dân tộc như những bái hát ru con (thường là trích mượn từ những bài ca dao) thì công chúng chủ yếu của nó lại chính là “những người chưa đủ trưởng thành về trí tuệ”, nhưng lại không thể phóng tác được, phải hát đúng từng chữ khi ru con, với niềm hy vọng là nó sẽ được ghi lại trong ký ức thành những kỷ niệm không bao giờ phai mờ để sau này nhớ lại, con người trưởng thành sẽ coi nó như một truyền thống vĩnh hằng thiêng liêng nhất, quý giá nhất của dân tộc [ii] .
Sau khi đã nói rõ nội dung của những công việc có phần gần gũi với dịch thuật, khi bạn đọc đã có thể có được một khái niệm tương đối rõ ràng về những ranh giới khu biệt giữa dịch thuật với những công việc ấy, chúng tôi xin trình bày công việc dịch thuật như một quá trình gồm có mấy công đoạn tách biệt. Đó là một cách trình bày có tính ước định, chẳng qua để cụ thể hoá những chi tiết nhiều khi khó xác định của cái công việc không lấy gì làm đơn giản này
4. Những công đoạn của việc dịch thuật
Các tác giả của những giáo trình được đem giảng tại các khoa và bộ môn ngôn ngữ học mà chương trình có bao gồm nội dung Dịch thuật thường trình bày công việc của ngành khoa học này dưới dạng một quá trình có bốn công đoạn sau đây:
(1) Phân tích nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn (Source Language) để “hiểu” thật rõ tác giả “muốn nói” gì.
(2) Xoá cách ngôn từ hoá của nguyên bản (Deverbalisation of the text)
(3) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của nguyên bản (qua một siêu ngôn ngữ ước định)
(4) Tái ngôn từ hoá bằng ngôn ngữ đích để có được một văn bản tương đương với nguyên bản (Reverbalisation in the Target Language so that the text obtained would be equivalent to that written in the Source Language).
Dĩ nhiên, cách phân ra thành công đoạn như trên không nhất thiết phải là một quá trình gồm những giai đoạn lần lượt kế tiếp nhau theo trật tự thời gian. Mỗi người dịch có thể làm việc theo một phương thức khác nhau, kê cả những phương thức hoàn toàn mặc ẩn (implicite), thậm chí vô thức (unconscious). Nhưng, cũng như khi nói về quá trình thụ đắc (acquisition) vốn tri thức của người bản ngữ về tiếng mẹ đẻ của mình, muốn dạy cách phiên dịch không thể có cách gì ngoài cách hiển ngôn hoá (explicitating), nghĩa là nói ra thành lời một cách tỏ tường để người học nhận thức được từng chi tiết, từng giai đoạn của quá trình thụ đắc vốn tri thức cần thiết. Ta hãy xét kỹ từng công đoạn trong quá trình làm việc của người phiên dịch có tri thức hiển ngôn về quá trình này.
(1), (2) Hiểu và phi ngôn từ hoá nguyên bản (xóa hết những từ ngữ của nguyên bản)
Câu hỏi tất nhiên phải nảy sinh trong tâm trí người đọc trước hết là: tại sao lại phải xóa những từ ngữ của nguyên bản, và sau khi làm như vậy, thì trong trí nhớ của người phiên dịch phỏng còn sót lại được những gì?
Người có kinh nghiệm và kỹ năng dịch thuật [iii] sẽ đáp:
– Không ai có thể nhớ hết từ ngữ trong một lời phát biểu ở hội nghị, nếu dịch miệng. Người dịch chỉ nhớ cái nghĩa của lời phát biểu. Người dịch viết có kinh nghiệm cũng biết rằng khi hiểu một câu văn, người dịch phải quên cách biểu đạt câu ấy bằng những từ ngữ gì. Sự quên lãng này sẽ càng ngày càng trở nên tự nhiên, thậm chí tự phát. Trong tâm trí người nghe (người đọc), những từ ngữ của nguyên bản lập tức bị quên đi để nhường chỗ cái ý mà tác giả muốn truyền đạt. Có thế người nghe (người đọc) mới hiểu được cái ý ấy.
– Vậy cái ý ấy cụ thể là cái gì, khi đã quên hết cách diễn đạt nó bằng những từ ngữ vốn làm thành cái bệ đỡ vật chất của nó?
– Cái ý ấy thường được giữ lại trong ý thức của người nghe (hay người đọc) dười dạng nhữnghình ảnh về những gì đã được thuật lại bằng lời. Những hình ảnh này có thể tĩnh (tư thế, dáng vẻ) hay động (động tác hay sự thay đổi tư thế, hình dáng). Ngoài ra, những hình ảnh này lại phải được đặt trên bối cảnh của những hình ảnh đã có trong văn cảnh trước đó, rồi lại được cắt nghĩa bằng những tri thức phổ thông (ngoài ngôn ngữ học) của người nghe hay người đọc.
Những người nghe dịch miệng trong hội nghị thường kinh ngạc trước cái trí nhớ “kỳ dị” của người phiên dịch chính là vì cứ tưởng anh ta nhớ hết các từ ngữ, trong khi thật ra anh ta chỉ nhớ cáinghĩa, cái ý mà người kia muốn nói ra thôi. Người dịch viết cũng không hề làm khác, nếu anh ta đã thực sự hiểu tác giả muốn nói gì. Ở đây chỉ cần lưu ý một chút nữa để thấy cần phân biệt mấy chữ muốn nói gì với những câu hỏi về nguyên do (tại sao mà nói thế?) về động cơ (nói thế để làm gì?).
Nói tóm lại, phi ngôn từ hoá nguyên bản không hề gây trở ngại cho người dịch mà chính là tạo một điều kiện không thể thiếu để họ có thể dùng nội quan (introspection) soi sáng tâm trí mình để thoát ra ngoài những từ ngữ có thể gây nên những tạp âm (noise – hiểu theo nghĩa của lý thuyết thông tin) có hại cho hoạt động “hiểu” (comprehension) của tâm trí nếu người nghe không quên ngay đi để chỉ tập trung vào việc hiểu cho đúng tác giả muốn nói gì, muốn mình hình dung được những hình ảnh nào.
(3) Công việc tìm hiểu cái nghĩa, cái ý mà tác giả muốn nói sẽ được nhận thức một cách minh xác hơn nữa khi ta phân tích một cách hiển ngôn, bằng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ học và của ngữ dụng học (nhất là trong những hành động ngôn từ (speech acts) của tác giả và của các nhân vật, trong đó có những câu được gọi là câu ngôn hành – performative sentences)
Những bình diện của lời nói và của văn bản đều được quan tâm phân tích đến mức chi ly, để không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào.
Tuy nhiên không nên nghĩ rằng hiểu một văn bản là một quá trình làm việc công phu đòi hỏi một thời gian dài. Công việc kiểm tra và phê bình, đánh giá mới đòi hỏi như vậy, còn việc người nghe (hay người dịch) hiểu cái nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt bất chấp những lỗ hổng, những sự tỉnh lược, những chỗ không nói hết trong ngôn từ thường chỉ cần một khoảnh khắc, một nháy mắt cũng có thể được bù đắp ngay trong ý thức của người nghe (hay người dịch).
Sau đây là những nội dung ý nghĩa chứa đựng trong nguyên bản không bao giờ được truyền đạt bằng ngôn từ mà người nghe hay người dịch vẫn phục hồi được và hiểu ngay lập tức khi tiếp xúc với văn bản:
1. Tiền giả định (presupposition) . Khi gặp một người quen hỏi thăm mình bằng câu “Anh đã khoẻ chưa?”, người nghe (hay người dịch) biết ngay rằng người ấy có nghe ai đó nói rằng trước đó mình có bị bệnh. Nếu cái tiển giả định ấy đúng, anh ta có thể trả lời là ”Khoẻ rồi” hay “Chưa khoẻ”. Nhưng nếu cái tiền giả định ấy sai (tức trước đó anh ta không hề đau ốm gì), thì dù có trả lời thế nào cũng không ổn, vì cũng vô hình trung thừa nhận một tiền giả định hoàn toàn sai.
2. Hàm nghĩa từ vựng (lexical implication) . Khi một nhân vật trong nguyên bản nói “Nó sắp cưới vợ mới”, người nghe (và người dịch) biết ngay rằng nó là một người đàn ông trưởng thành từng có một đời vợ, mặc dầu trong câu không có một từ nào nói rõ giới tính của nó (nó dĩ nhiên có thể là một đứa con gái) và tình trạng hôn nhân trước đó của nó. Tuy vậy người nghe (và người dịch) suy diễn được ngay những điều này từ những từ khác có mặt trong câu như cưới vợ và mới.
3. Hàm ngôn hội thoại (conversational implicature) . Ta thấy có một hàm ngôn hội thoại khi người nghe (hay người dịch) có thể căn cứ vào một ý trong cuộc hội thoại mà suy ra một ý khác không nói ra nhưng vẫn có mặt trong ý thức người nghe (hay người dịch). Chẳng hạn khi nghe ai nói “Hôm nay nó không say”, người nghe hiểu ngay là có những hôm khác nó say.
Nói chung, ta thấy rằng một nguyên bản bất kỳ không nhất thiết phải nói hết nội dung của nó ra bằng từ ngữ, vì có những ý có thể được người nghe suy ra một cách dễ dàng ngay từ sự vắng mặt của những từ ngữ ấy.
Về những Đơn vị Ý nghĩa
Khi nghe một lời phát biểu ở hội nghị cũng như khi đọc một câu văn cần dịch, người nghe hay người đọc đang muốn dịch câu ấy thường bất giác chia câu ấy ra thành từng “cụm từ “ để lần lượt hiểu cho được những gì vừa nghe hay vừa đọc xong. Những “cụm từ” này không trùng với những đơn vị cấu trúc mà nhà ngôn ngữ học dùng những thủ pháp phân tích nghiêm ngặt để tách ra khỏi ngữ lưu (những ngữ đoạn, những từ đơn, những từ ghép, những thành ngữ, v.v.). Lederer gọi đó là những Đơn vị Ý nghĩa (Unités de sens).
Người nghe hay người dịch lần lượt hiểu và quên ngay những từ ngữ vừa nghe hay vừa đọc được không phải theo một kỹ năng khoa học, có cơ sở lý luận, mà theo bản năng, trong quá trình nghe hay đọc, hễ hiểu ra được khúc nào là ghi nhận ý nghĩa (và quên ngay từ ngữ) của khúc ấy.
Những đơn vị ý nghĩa này nối tiếp theo nhau (và có những chỗ chồng chéo lên nhau) trong tâm trí người nghe để cuối cùng làm thành cái ý nghĩa chung của câu văn và đoạn văn, rồi hội nhập vào những đơn vị rộng lớn hơn nữa,, những ý nghĩa mạch lạc hơn, và biến thành những kỷ niệm, những tri thức phi ngôn từ hoá trong tâm trí người nghe hay người dịch.
Kích thước của những đơn vị ý nghĩa có thể ở mỗi người một khác. Có người phải chờ cho hết một đoạn dài mới tổng kết được ý nghĩa của nó; có người chỉ cần nghe một hai chữ đầu đã hiểu cả đoạn.
(4) Tái ngôn từ hóa
Công đoạn cuối cùng của việc dịch thuật, – và cũng chính là mục đích tột cùng của nó – là việc tái ngôn từ hoá những gì người đọc đã hiểu được khi đọc nguyên bản, tức những ý và nghĩa mà tác giả muốn truyển đạt bằng cách sử dụng ngôn ngữ đích – thứ tiếng mà người dịch chọn làm phương tiện biểu đạt cho bản dịch của mình..
Như đã nói trên kia, một bản dịch xứng đáng với danh từ này phải có giá trị tương đương (equivalent) với nguyên bản về mọi phương diện, nội dung cũng như hình thức. Vậy muốn bản dịch có giá trị tương đương này, người dịch phải làm những gì?
Tính tương đương của một bản dịch so với nguyên bản có thể phân tích thành hai dình diện: bình diện nhận thức (équivalence cognitive) và bình diện xúc cảm (équivalence affective)
1. Tính tương đương về nhận thức
Tính tương đương trên bình diện nhận thức là kết quả của việc sử dụng những yếu tố phụ trợ về khái niệm mà người dịch đưa vào bản dịch để bổ sung cho ngữ nghĩa của nguyên bản. Việc bổ sung này là cho bản dịch khác với nguyên bản về hình thức. Mức độ khác nhau giữa nguyên bản và bản dịch tùy thuộc vào sự khác nhau về loại hình giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.
Cái khoảng cách này càng nhỏ thì càng có nhiều sự tương ứng (correspondences) về hình thức biểu đạt. Vì vậy giữa hai thứ tiếng cùng loại hình như tiếng Hán và tiếng Việt, đều là ngôn ngữ đơn lập (isolating) và phân tích tính (analytic) đến triệt để, đều không dùng đến hình thái học [iv], chỉ còn khác nhau ở trật tự từ ngữ trong ngữ danh từ (phụ trước chính sau), trong khi ngữ vị từ thì vẫn theo trật tự chính trước phụ sau, có thể tìm thấy khá nhiểu sự tương ứng về ngữ pháp và từ vựng trong cách biểu đạt. Huống chi trong tiếng Việt có đến từ 70% đến 80% từ ngữ gốc Hán, trong đó có những ngữ đoạn có cấu trúc chặt và thường có chức năng định danh, gọi là “từ Hán-Việt” [v] .
Còn giữa tiếng Việt và các thứ tiếng châu Âu, vốn thuộc loại hình khuất chiết hay biến hình (inflectional) và tính tổng hợp (synthetic) rất cao, cái khoảng cách ấy rất lớn, cho nên ít khi có thể tìm thấy những sự tương ứng, nhất là những sự tương ứng một đối một, giữa hai bên. Trong việc dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, công đoạn phi ngôn từ hoá lại càng quan trọng và cần thiết. Khi đã hiểu được cái ý nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt, thà xoá hết những từ ngữ của nguỵên bản tiếng Âu châu còn hơn mải loay hoay với những từ ngữ ấy mà sao lãng việc tìm cho ra cách biểu đạt cho thật đúng và thật hay những ý nghĩ và hình tượng mà tác giả muốn truyền đạt.
Tôi còn nhớ mãi một câu văn trong sách “kinh điển” do một nhà xuất bản lớn của Thủ đô ấn hành vào những năm 50 của thế kỷ vừa qua:
Cứ cái đà này, những con người rồi sẽ đến nước phải gặm cỏ nội như những con cừu cái.
Trong nguyên bản tiếng Pháp (xuất xứ của bản dịch vừa dẫn), ta thấy:
De ce train-là, les hommes en viendront à brouter l’herbe des prés comme les brebis.
Tôi hoàn toàn thông cảm với dịch giả trong sự nỗ lực dịch thật sát nguyên bản sách kinh điển, vốn được coi là một thứ thần văn mà nếu dịch sai dù chỉ một chữ hay một cái dấu chấm câu cũng có thể đề lại cho hậu thế nhũng hậu quả khôn lường. Nếu dịch giả không dịch như thế, thì ban biên tập chắc chắn sẽ sửa lại cho đúng như thế.
Nhưng đứng trên quan điểm của nghề dịch thuật, không thể không nói ra những nhận xét sau đây:
(a). dịch giả dịch sát những từ ngữ, chứ không truyền đạt cái ý mà tác giả muốn nói;
(b). dịch giả không biết tiếng Việt chuẩn khác tiếng Pháp như thế nào. Chẳng hạn, les hommeskhông tương ứng với những con người, mà với con người hay người ta; khi nói về động vật, tiếng Việt không có nhu cầu phải nói rõ số và giống như tiếng Pháp, cho nên viết ăn cỏ như cừu là đủ và đúng. Vả lại chẳng lẽ chỉ có cừu cái mời ăn cỏ, còn cừu đực thì không?
Dù câu dẫn trên đây có là một câu thần chú, trong đó mỗi chữ đều linh thiêng và có giá trị sinh tử đối với người khấn nguyện, thì cách dịch như thế vẫn là sai vì dùng ngôn ngữ đích không đúng chuẩn và do đó không tương đương với nguyên bản, ít nhất là về phương diện ngữ pháp và phong cách, vì có quá nhiều nét thừa dư (redundancies) nếu lấy nguyên bản tiếng Pháp làm chuẩn để so sánh.
Giáo sư phật học Minh Chi nhiêu lần than phiền rằng những bản dịch kinh Phật đọc lên không ai hiểu được chút gì, nhưng ông đã đề nghị dịch lại mấy lần mà Giáo hội không chịu, vì Kinh Phật “chỉ cần tụng niệm chứ không cần hiểu”.
2. Tính tương đương về xúc cảm
Không thể có một lý thuyết chung để xác định mức độ tương đương về tính xúc cảm giữa một bản dịch với nguyên bản, vì trên bình diện này sự khác nhau giữa các ngôn ngữ có thể nói là muôn hình vạn trạng. Mỗi ngôn ngữ có một cách riêng để kết hợp hai bình diện nhận thức và xúc cảm trong những thủ pháp thường gọi là tu từ học, hay phong cách học, hay hùng biện (rhetorics). Bình diện xúc cảm cũng có mặt trong cách dùng những thành ngữ, những tục ngữ, những lối nói mà truyền thống lâu đời của văn học dân gian đã nhuộm những màu sắc xúc cảm không mấy khi có thể phân tích và xác định bằng những thuật ngữ khoa học.
Tính tương đương về hai bình diện xúc cảm và nhận thức thường quyện vào nhau một cách hết sức nhuần nhuyễn trên khắc các cấp độ khác nhau của hệ tôn ti giữa các đơn vị ngôn ngữ.
Sau đây là cách trình bày của Werner Koller (1992) về những chuẩn tắc của tính tương đương trong dịch thuật:
* bản dịch phải chuyển đạt đủ những thông tin của nguyên bản về hiện thực ở bên ngoài ngôn ngữ (denotative Äquivalence)
* nó phải tôn trọng phong cách của nguyên bản: âm vực của ngôn ngữ, biệt ngữ xã hội và địa phương của nguyên bản (konnotative Äquivalence)
* nó phải phù hợp với thể loại chuẩn của nguyên bản (textnormative Äquivalence)
* nó phải được thích nghi với vốn tri thức của độc giả để cho độc giả hiểu được. Đó là một sự tương đương về dụng pháp (pragmatische Äquivalence)
* cuối cùng, bản dịch phải tạo ra được một hiệu quả thẩm mỹ tương đương với nguyên bản (formal-ästhetische Äquivalence).
Ta có thể tin chắc rằng những chuẩn tắc trên đây của W. Koller đề phải được tính đến, một cách có ý thức hay chỉ trong mẫn cảm trực giác, khi đánh giá một bản dịch. Tất nhiên, những chuẩn tắc này không phải là một phương pháp dịch thuật có thể dùng để soạn sách giáo khoa đào tạo những người phiên dịch. Nhưng nó có thể cho phép người ta kiểm nghiệm lại xem thử một bản dịch nào đấy có thiếu sót điểm nào trong việc đi tìm sự tương đồng hay không.
Ngay trong cách trình bày những chuấn tắc của mình về tính tương đồng của bản dịch so với nguyên bản, W. Koller không tránh khỏi việc so sánh giữa từ ngữ của bản dịch với từ ngữ của nguyên bản. Điều này có phần mâu thuẫn với nguyên lý chung của ngành dịch thuật: dịch không phải là thay thế những từ ngữ của nguyên bản bằng những từ ngữ của một thứ tiếng khác, mà hiểu lấy ý nghĩa của nguyên tác bằng cách xoá sạch từ ngữ của nó đi để tạo nên một ý nghĩa tương đương bằng những từ ngữ của một thứ tiếng khác.
Nhưng kiểm tra và đánh giá một bản dịch lại là một công việc khác.
*
Những dòng trên đây của chúng tôi không có tham vọng gì hơn là phác thảo một vài nguyên lý cơ bản của công việc dịch thuât xét về lý thuyết, chủ yếu dựa trên một cuốn sách tương đối mới (so với thuyết TÍN-ĐẠT-NHÃ của hai thế kỷ trước). Chúng tôi biết rằng bài này chưa đáp ứng được bao nhiêu những nhu cầu lý thuyết và thực tiễn của các bạn đồng nghiệp. Tôi chỉ mong sao những người có chú ý đến dịch thuật và có trách nhiệm trong ngành xuất bản quan tâm ít nhiều đến việc cho dịch và xuất bản một vài công trình có thể giúp cho những người làm việc trong ngành này có tài liệu để trau dồi tri thức về nghề nghiệp.
—-
[i] Trong số những chuyên gia nổi tiếng về phiên dịch có PGS. Phan Ngọc đã hàng trăm lần căn dặn các môn đệ rằng “muốn đổi gì thì đổi, chứ trât tự từ ngữ thì nhất thiết phải giữ y nguyên”.
[ii] Một điều đáng tiếc là những bài ca dao thường dùng khi ru con rất ít được học trong các giáo trình tiếng Việt, vì nó rất khác tiếng Tây, và do đó “chẳng có giá trị gì về ngữ pháp”.(ngay sách giáo khoa dạy tiếng cũng rât ít khi dẫn ca dao, vì câu ca dao tường cải chính một cách hùng hồn những quy tắc ngữ pháp tiếng Tây mà sách giáo khoa đem dạy cho người Việt).
[iii] Những tài liệu chủ yếu mà chúng tôi sử dụng trong bài này gồm có những đầu đề sau đây: Lederer M. La traduction aujourd’hui. Le modèle interprétatif. Hachette 1994; Seleskovich D.Traduire, de l’expérience au concept. Études de Linguistique Appliquée 24. Didier 1986. Sperber D. & Wilson D. Relevance, Communication and Cognition. Blackwell 1986. Sartre J. P. Qu’est-que la littérature. Gallimard 1985. Steiner G. After Babel.Aspects of Language and Translation. Oxford U.P. 1978; Delisle J. L’analyse du discours comme méthode de traduction. P.U.Ottawa 1984; Koller, W.Einführung in die Übersetzungwissenschaft. Heidelberg. 1992.
[iv] Đây là nói đến tiếng Hán”cổ điển” (thời Đường–Tống), vì tiếng Hán hiện đại đã có những yếu tố khá rõ của loại hình chắp dính (agglutinating languages) với sự xuất hiện hàng loạt của những phụ tố (affixes), do quá trình ngữ pháp hoá (grammaticalisation) của những “thực từ” vốn mang nghĩa từ vựng (lexical meaning) như danh từ (nouns) và vị từ (verbs), nay đã mất nghĩa từ vựng (“hư hoá”) mà chuyển thành những công cụ ngữ pháp (những phụ tố như tử, nhi, nhĩ, tố, đích, v,v,).
[v] Danh ngữ này, thường được coi như một vế đối lập với “từ thuần Việt”, đã gây nên nhiều sự ngộ nhận không đáng có.. Có nhiều người tưởng rằng “từ Hán-Việt” là những từ ngữ được ”vay mượn” từ nước ngoàiï rồi đem du nhập vào tiếng Việt, cũng giống như những từ ngữ tiếng Pháp, tiếng Anh hay Quảng Đông, Phúc Kiến, Nhật Bản, Hàn Quốc, đổng thời tưởng rằng từ ”thuần Việt” là những từ gốc Việt có từ thời khai thiên lập địa. Thật ra từ “thuần Việt” hầu hết là những từ gốc Thái, gốc Mường hay gốc Môn-Khmer. Trong khi đó thì từ Hán-Việt là một trong những cội nguồn quan trọng và cổ xưa nhất của tiếng Việt, nằm trong lớp hạ tằng của tiếng “thuần Việt”,chứ tuyệt nhên không phải là những từ mới vay mượn từ tiếng nước ngoài.
