Lại bàn về nguồn gốc người Việt
<Quote>:
Tích DãThế kỉ 15 trở đi người Việt Nam từ
Lạng Sơn đến Cà Mau thì lịch sử đã
rõ ràng thì không bàn làm gì. Chữ 越
người miền Bắc đọc là ‘việt’,
người miền Nam đọc là ‘diệt’ thì cũng
chẳng liên hệ gì với từ ‘rìu’, ‘búa’
là từ gốc Việt so với gốc Hán-Việt
là ‘việt/diệt’ hay âm đọc Quảng Đông
là ‘jyut’, âm đọc Bắc Kinh là ‘yue’. Há
chẳng phải ư?Chuyện nguồn gốc Bách Việt di cư
xuống thì rất mù mịt, ngoài việc cùng
gọi là người Việt (越). Như dòng họ
nhà tôi đây, chỉ biết từ thế kỉ 13
có gốc ở miền Bắc xuống xứ Nghệ
phát triển đến nay, về trước thì mù
tịt. Nói chi đến sâu xa hơn ở tẩn
đâu? Còn như chuyện họ Hồng Bàng, họ
Thục đã xưa lắm rồi, họ có từ phía
bắc xuống thì cũng chỉ là một dòng
họ nào đó thôi, cũng như một số dòng
họ như họ Hồ, họ Võ từ thời Bắc
thuộc, nhưng không phải là phần nhiều.
Chỉ dựa vào đấy mà bảo người Kinh
(Việt Nam) ngày nay có gốc Bách Việt thì
thật là vô lí. Trong khi sách cổ đã xác
nhận có người Lạc bản địa từ
trước thời Bắc thuộc.</Quote>
Tích Dã tiên sinh giải thích ra sao về cứ liệu khảo cổ ở khu mộ cổ Mán Bạc có cả xương cốt chủng người châu Á (Mongoloid) và chủng người Đa Đảo phương Nam (Australoid) :
[www.bbc.co.uk]
Khu mộ Mán Bạc có niên đại khoảng 3800 năm trước, giả định nếu nhóm Mongoloid “Nam tiến” khoảng vài trăm năm trước đó thì phù hợp khá tốt với truyền thuyết Lạc Long Quân-Hùng Vương hơn 4000 năm của người Việt.
Bài thơ Tặng Cao Li sứ của Nguyễn Huy Oánh mà tiên sinh dịch
“…
Thành Thang quân viễn tổ,
Viêm Đế ngã gia tiên…”
Xem ra lại đúng với cứ liệu khảo cổ trên, Thành Thang 1766 TCN-1761TCN tức khoảng 3800 năm trước, lúc đó thì nhóm chủng Mongoloid đã có mặt ở Bắc Việt rồi nên dân Việt đâu có thèm nhận Thành Thang là viễn tổ, mà nhận xa hơn 1000 năm nữa tới tận thời Viêm Đế-Thần Nông.
Ngoài ra nếu cứ theo sách Tàu thì nhóm thị tộc Thần Nông cùng gốc với nhóm Hán Tộc Hoàng Hà … nhưng Tích tiên sinh đã có chứng cứ khoa học (ví dụ ADN) nào chưa ngoài trùng điệp sử Tàu mà nhóm tiên sinh đưa lên diễn đàn này ?
Cứ liệu ngôn ngữ thì lại cho thấy chữ Giang 江 vốn có bộ phận biểu âm là chữ Công 工, âm thượng cổ theo nhà ngôn ngữ học Baxter phục nguyên là kroŋ , nhiều tác giả nhận định có nguồn gốc ở từ “sông” của phương Nam (Krông ở Tây Nguyên, Không ở người Mường…) đối lập với từ “hà” của nhóm Hán tộc gốc Hoàng Hà. Từ địa 地 âm thượng cổ theo Baxter phục nguyên là djejs rất gần với tiếng Khmer “đây” nghĩa là đất và tiếng Việt “đai” cũng là đất (còn lưu tích rõ trong từ kép “đất đai”), đối lập với từ “thổ” của nhóm Hán tộc sống trên vùng đất hoàng thổ, sông Hoàng .v.v.
Mà vùng trung lưu Trường Giang có Hồ Bắc là đất sinh Viêm Đế, Hồ Nam là nơi có lăng Viêm Đế, do đó nếu nhận định Viêm Đế – Thần Nông Thị vốn là một nhóm tộc gốc phương Nam hay chịu ảnh hưởng của phương Nam thì đâu phải vô lý ?
Đâu phải vị vua nào các chú Tàu nhận là vua của mình cũng là dân Hán gốc, như vua Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn (họ Thiết Mộc Chân) với vua Thanh (họ Ái Tân Giác La) không phải là những chứng cứ hùng hồn sao ? Cái thuyết “nhận xằng” có lẽ lên áp dụng cho các chú Tàu đúng hơn là dân Việt (xem ghi chú 2).
Về nguồn gốc từ “Việt” thì sử Tàu đã đề cập đến chuyện nước Việt Thường dâng rùa trên lưng có chữ từ thời vua Nghiêu (xem ghi chú 1), xa hơn ngàn rưởi năm trước nước Việt của Câu Tiễn, và nước Việt Thường ít ra cũng tồn tại hơn ngàn năm để đến đời Chu Thành Vương lại tiếp tục đến dâng chim trĩ. Xem vậy không phải người Việt (Kinh) thèm cái danh Bá của Câu Tiễn mà ăn trộm cái tên “Việt” đâu.
***
Ghi chú 1:
《通志》(宋•鄭樵[1104年-1162年]撰)又按陶唐之世,越裳國獻神龜,蓋千歲,方三尺餘,背有科斗文記開闢以來,堯命錄之,謂之龜歴。
《Thông Chí 》(Tống •Trịnh Tiều [1104-1162]soạn) Hựu án Đào Đường chi thế, Việt thường quốc hiến thần quy, cái thiên tuế, phương tam xích dư, bối hữu khoa đẩu văn kí khai tịch dĩ lai, Nghiêu mạng lục chi, vị chi Quy Lịch.
(Lại xét đời Đào Đường, nước Việt Thường dâng con rùa thần, phải đến hơn nghìn năm tuổi, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy Lịch tức Lịch rùa)
***
Ghi chú 2:
Dân Việt có đạo thờ tổ tiên rất nghiêm cẩn, khó có chuyện bưng một thằng ngoại tộc đặt lên bàn thờ.
***
Năm Ngọ nói chuyện từ nguyên của Ngựa
Vài ý kiến tải mạn về con ngựa trong nền văn hóa Việt Nam và nguồn gốc từ ngựa trong tiếng Việt
Cho đến này nay ngựa vẫn là giống vật nuôi rất hiếm thấy ở các vùng đồng bằng VN, nhưng sự hiếm có này cũng như việc chưa tìm thấy răng ngựa ở các di chỉ khảo cổ VN với niên đại trước thế kỷ 2 TCN có vẻ không tương xứng với tầm vóc văn hóa mà con ngựa có trong nền văn hóa VN, chẳng hạn truyền thuyết Thánh Gióng đã đề cập đến ngựa sắt từ thời Hùng Vương thứ 6, ngang với thời nhà Ân ở Trung Quốc?
Một số cứ liệu ngôn ngữ, lịch sử :

https://dl.dropboxusercontent.com/s/2h0g3wejmh7g41k/image002.gif?dl=0
Đọc thông tin trên thấy các nhóm Thái-Kadai chính (trong đó tộc Choang là lớn nhất) đều gọi ngựa là “Mạ”, giống với tiếng Hán, nhưng vẫn có một số nhóm gọi khác, ví dụ:
Ba Cáp và Lang Giá gọi ngựa là “nga”, Hạn Lạp Cáp đọc là “ihɛ”, người Lê ở Hải Nam gọi là “ka” .
Halogroup là phương pháp phân loại nhóm nhân chủng theo các đặc điểm biến dị trên nhiễm sắc thể, như nhiễm sắc thể Y-ADN ở đàn ông.
Có thể tham khảo thêm loạt bài về nguồn gốc 12 con giáp có thể gốc từ tiếng Việt của tác giả Nguyễn Cung Thông, chẳng hạn:
http://khoahocnet.com/2014/01/27/nguyen-cung-thong-nguon-goc-viet-nam-cua-ten-goi-12-con-giap-ngo-ngua-13a/
CHÚC MỪNG BÁC KHÚC THẦN
Được tin bác Khúc Thần cưới vợ ngày hôm nay 28/12/2013, tiếc là tại hạ bận công việc không ra Hà Nội dự lễ được.
Xin gởi lên đây vài dòng chúc mừng:
Mừng song song hỉ:
Vừa nhận tin mừng Duy Thắng cưới
Bỗng thêm báo hỉ Khúc Thần thơ
Gác Đằng phút chốc duyên về bến
Lân chỉ ngày sau phúc cập bờ
Quân tử hữu tài âu phải trọng
Giai nhân giá ngọc vẫn hằng chờ
Nay mừng hai bác song song hỉ
Hẹn dịp bầu nghiêng dốc túi thơ.
(Tặng hai người bạn ở Hà Nội vừa cưới vợ)
==
Ghi chú: Duy Thắng là người bạn chung của tại hạ và bác Khúc Thần, là kỹ sư trưởng xây cây cầu Rồng mới ở Đà Nẵng.
Xem : [laodong.com.vn]