Tiếp tục tìm hiểu nghĩa gốc của chữ Hán lang 郞
Xin xem bài gốc ở Văn Hóa Nghệ An:
http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tiep-tuc-tim-hieu-nghia-goc-cua-chu-han-lang-von-la-lang
Sau khi đăng bài trên người viết đã nhận được nhiều ý kiến phê bình và góp ý trên Facebook của mình. Trong đó có ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Đại Cồ Việt cho rằng “Lang” có lẽ chỉ là địa danh thôi chứ đâu có sách nào nói rõ nó có nghĩa là làng, ấp ? Vì vậy người viết phải tiếp tục tìm kiếm thêm tư liệu xác minh:
Phân tích ý nghĩa câu trong Tả Truyện mà các từ thư như Thuyết Văn Giải Tự, Khang Hy Tự Điển khi chú giải chữ lang 郞 hay nhắc tới:
《左傳·隱元年》費伯帥師城郞. “[Tả truyện. Ẩn nguyên niên] Phí bá suất sư Thành Lang”. (Năm Lỗ Ẩn Công thứ nhất. Bá tước đất Phí cầm quân Thành Lang). Cổ văn súc tích không có giới từ nên người đọc phải tự suy đoán “đến Thành Lang” hay “từ Thành Lang” hay “ở Thành Lang”…
Sách Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận giải thích lang là “Lỗ đình” (Đình nước Lỗ), trong phần chú giải sách Thuyết văn của người đời sau còn chú thêm : 鄭曰。郎、魯近邑也。杜云。郎、魯邑. Trịnh viết: lang, lỗ cận ấp dã. Đỗ vân: lang, lỗ ấp ( Trịnh Huyền chú là ấp gần trung tâm nước Lỗ, Đỗ Dự cũng chú là ấp nước Lỗ) [1].
Khang Hy Tự Điển thì chỉ dẫn lại y nguyên sách Thuyết Văn.
Như vậy các từ thư cổ không có sách nào nói rõ ra “lang” có nghĩa là làng hay ấp cả, đúng như ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Đại Cồ Việt, nhưng cũng không có từ thư nào nói rõ nó là địa danh cả, ví dụ Khang Hy Tự Điển vốn là sách chú giải rất cẩn thận các tính danh, địa danh, sơn danh, thủy danh … nhưng lại không thấy chú rõ “Thành Lang” là địa danh, trong khi ngay đoạn sau khi nhắc đến tên nước “Dạ Lang” thì lại chú rõ là địa danh ở quận Tang Ca.
Ý kiến nói “Lang” là địa danh là cách giải thích của người hiện đại ở trang mạng nào đó của Trung Quốc (người viết quên ghi lại địa chỉ).
Do nghĩa gốc của Lang là “làng”, “ấp” không còn trong Hán ngữ hiện đại nên người viết quyết định “gúc” địa danh “Thành ấp 城邑” thay vì “Thành Lang 城郎”, và tìm thấy trên BaiDu giải thích sau:
https://baike.baidu.com/item/%E6%AD%A6%E5%9F%8E%E9%82%91
武城邑为春秋时期鲁国城邑,治所在今山东平邑县魏庄乡武城村。
Võ Thành ấp vi Xuân Thu thì kì Lỗ Quốc Thành ấp, trị sở tại kim Sơn Đông Bình Ấp huyện Ngụy Trang hương Võ Thành thôn…. 公元前554年(鲁襄公十九年)筑城 công nguyên tiền 554 niên (Lỗ Tương Công thập cửu niên ) trúc thành. (Ấp Võ Thành tức là ấp Thành ở nước Lỗ thời Xuân Thu, trị sở nay là thôn Võ Thành, xã Ngụy Trang, huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông. Năm Lỗ Tương Công thứ 19 (554 TCN) xây thành.) [2]
Đối chiếu thì “Thành Lang” có lẽ chính là “Thành ấp”.
Trong trang trên có một thông tin đặc biệt thú vị xin lưu ý với người đọc, đó là câu trích sách Mạnh tử: 《孟子》:“曾子居武城,有越寇。” “Tăng Tử cư Vũ Thành, hữu Việt khấu” (Tăng Tử ngụ ở Vũ Thành, có bọn giặc Việt)[3].
Như vậy vùng đất Vũ Thành này gần với đất của người Việt, người viết đề nghị xem xét tới khả năng “Thành Lang” vốn là “làng Thành” của người Việt, sau Hán tộc đến xâm lấn và cai trị, dân cư gốc còn sót lại ở vùng đó bị gọi là bọn “giặc Việt”. Chú ý “Việt” đây là người viết muốn nói Bách Việt nói chung chứ không phải chỉ riêng nước Việt của Câu Tiễn, tức là chỉ nhóm dân cư cổ ở vùng Trường Giang nói ngôn ngữ Nam Á hay Thái Kadai.
Nếu đúng Thành Lang là Thành Ấp thì chữ “lang” khớp với nghĩa “ấp”. Ngoài ra theo sách Tả Truyện thì đời Lỗ Ẩn Công (trị vì 722 TCN-712 TCN) thì tên “Thành Lang” vẫn còn, nhưng sau vài thế kỷ đến sách Mạnh Tử (372–289) thì đã trở thành tên thuần Hán là “Võ Thành”.
Dầu sao thì thì gần 3 nghìn năm nay cái tên “Thành” (của “làng Thành”, có thể của người Việt cổ ?), vẫn còn đó, chỉ bị người Hán gia thêm chữ “Vũ” để thành tên đậm chất Hán “Vũ Thành”.
Cuối cùng, người viết xin bàn rộng ra vì sao các chữ đình (chỉ cái đình) và chữ lang (vốn gốc chỉ cái hành lang) lại dẫn đến nghĩa “làng”?
Tự điển Thiều Chửu chú chữ đình 亭 như sau:
Đình
(1): Cái đình. Bên đường làm nhà cho khách qua lại trọ gọi là quá nhai đình 過街亭 . Trong vườn công, xây nhà cho người đến chơi nghỉ ngơi, ngắm nghía gọi là lương đình 涼亭 .
(2): phép nhà Hán chia đất cứ 10 dặm là 1 đình, 10 đình là 1 làng, nên người coi việc làng gọi là đình trưởng 亭長 tức như lý trưởng bây giờ.
(3): dong dỏng. Như đình đình ngọc lập 亭亭玉立 -dong dỏng cao như ngọc đẹp, tả cái dáng người đẹp.
(4): đến, như đến trưa gọi là đình ngọ 亭午
Còn sách Thuyết văn chú chữ đình 亭 là 民所安定也。亭有樓,从高省,丁聲。 Dân sở an định dã, đình hữu lâu. Tòng cao tỉnh, đinh thanh (Là chỗ dân an cư, có cái lầu. Phần chỉ nghĩa là chữ cao viết tỉnh lược, phần chỉ âm là chữ đinh)
Như vậy sách Thuyết văn coi trọng nghĩa phái sinh (nơi tụ họp dân cư) hơn là nghĩa gốc (cái nhà bên đường để nghỉ chân). Từ nghĩa phái sinh này mà có nghĩa “đình là làng”, có thể do nơi dựng đình thường là chỗ giao thông thuận lợi và mát mẻ gần nguồn nước (cây đa-bến nước-sân đình), mà đó cũng là tiêu chí để dân cư tụ họp dựng làng lập xóm nên thành ra cuối cùng thì “đình” sẽ thành “làng”.
Từ lập luận đó sẽ thấy là “lang 廊” (cái hành lang, theo Khang Hy tự điển thì thông với chữ lang 郎 chúng ta đang bàn) cũng có thể dẫn đến nghĩa làng, mà chữ Nôm thường viết là 廊.
Thật vậy, chỉ cần quan sát hình ảnh cầu ngói Thanh Toàn ở Huế hay Cầu chùa (Lai Viễn Kiều) ở Hội An là đủ hiểu: Trên cầu có mái che cho khách bộ hành nghỉ chân, chức năng cũng như cái đình, nhưng do kết cấu thông cả hai đầu nên thực chất nó là một cái “lang 廊 ” (hành lang).
Hình ảnh cầu ngói Thanh Toàn (Huế):
So sánh với hình ảnh cái đình tiêu biểu (làng Đình Bảng) :
Cây đa, giếng nước, sân đình là hình ảnh quen thuộc đã đi vào thi ca dân gian:
“Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen… “
—
GHI CHÚ:
[1] Trịnh Huyền (127-200) là học giả đời Hán. Đỗ Dự (222-285) là học giả đồng thời cũng là danh tướng nhà Tấn, đã tham gia diệt nước Ngô, kết thúc thời kỳ Tam Quốc.
[2] Sử dụng bản đồ Google có thể dễ dàng tìm thấy Ngụy Trang hương 魏庄乡 ở phía đông nam thành phố Khúc Phụ, kinh đô cũ của nước Lỗ, cách khoảng 60-70 km đường chim bay tức là khá gần kinh đô nước Lỗ, khớp với câu chú “Ấp gần Lỗ” của Trịnh Huyền.
[3] Võ Thành Ấp chính là quê hương của Tăng Tử, học trò xuất sắc của Khổng Tử.