TỔNG VỊNH TRUYỆN KIỀU CỦA CHU MẠNH TRINH
“giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn, nghe câu ngọc thụ não nùng”
TỔNG VỊNH TRUYỆN KIỀU CỦA CHU MẠNH TRINH
Kim sử duyên đề tặng phiến, Liêu Dương bất quy thúc phụ chi tang, biến khởi mãi ty, Lôi châu tức biện oan dân chi án; tắc sắc cầm hảo hợp, cốt nhục đoàn viên, bích ngọc trường lưu, tử thoa bất đoạn; yên hoa thương khách, hà lai mại tiếu chi kim, thanh giáo ngoại thần, chung trở quy hàng chi giáp. Continue reading
Xướng họa với bác Khúc Thần
fanzung:
Tặng các bác trên thread này một bài thơ chữ Hán của tại hạ đọc cho vui, bài này tại hạ cũng phải đi nhờ một người bạn dịch, hì hì
- 登福緣寶塔感作
夏日到天姥
僧迎寶塔前
開塔邀將往
好期遇福緣
步步徐登進
層層果證圓
幽掩壁苔色
真如佛像禪
七層遙望遠
玄幻帶江天
Đăng Phước Duyên bảo tháp cảm tác
Hạ nhật đáo Thiên Mụ
Tăng nghênh bảo tháp tiền
Khai tháp yêu tương vãng
Hảo kì ngộ Phước Duyên
Bộ bộ từ đăng tiến
Tằng tằng quả chứng viên
U yểm bích đài sắc
Chân như phật tượng thiền
Thất tằng dao vọng viễn
Huyền ảo đới giang thiên
HIỆN TƯỢNG ĐỒNG NGHĨA GIỮA CHỮ NÔM VIỆT VÀ CHỮ VUÔNG CHOANG
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 2/1997 :
Ghi chú: Chủ nhân blog này (fanzung) có ý định viết thêm một bài khảo cứu so sánh chữ khối vuông Choang với chữ Nôm Việt về ngữ âm, nhưng nhận thấy bài viết của GS Nguyễn Quang Hồng trong tạp chí Hán Nôm số 2/1997 đã khảo cứu khá toàn diện vấn đề này, nếu viết lại cũng không tránh khỏi trùng lặp hoặc liên tục phải ghi trích dẫn, nên quyết định đăng lại nguyên văn bài của GS Hồng, chỉ chuyển mã font “Chữ Nôm Khải” cũ về dạng Unicode để tiện phổ biến quốc tế, và bổ sung một số hình lấy từ cuốn “Từ điển chữ Choang cổ”.
HIỆN TƯỢNG ĐỒNG NGHĨA GIỮA
CHỮ NÔM VIỆT VÀ CHỮ VUÔNG CHOANG
O. LỜI DẪN
01. Đồng (僮) hay Tráng (撞 hoặc 壯) mà ở Việt Nam vẫn quen gọi là Choang, là một dân tộc có số dân đông thứ hai, sau dân tộc Hán, trong cộng đồng các dân tộc ở Trung Quốc. Hiện người Choang có hơn 13 triệu người, phần lớn (12 triệu) cư trú ở tỉnh Quảng Tây, số còn lại phân tán ở các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu. Đó cũng là địa bàn mà tổ tiên người Choang đã sinh sống từ thời cổ đại.
Về nguồn gốc người Choang vốn thuộc nhóm người Tây Âu (Việt và Âu Việt) và cũng liên quan đến nhóm Lạc Việt trong khối Bách Việt cổ. Còn người Việt (Kinh) ở Việt Nam thì bắt nguồn từ nhóm Lạc Việt và qua sự chung đụng với nhóm Tây Âu mà phát triển về sau. người Tày, người Nùng ở Việt Bắc chẳng những gần gũi với những Choang ở Trung Quốc về địa bàn cư trú, mà cũng gần gũi cả về quan hệ huyết
thống.
Tiếng Việt và tiếng Choang, xét về nguồn gốc sơ thủy, có thể thuộc những ngữ hệ khác nhau (chi Môn – Khmer ngữ hệ Nam á đối với tiếng Việt, chi Đồng Thái ngữ hệ Hán – Tạng đối với tiếng (Choang ?). Song do quan hệ tiếp xúc và hòa nhập lâu dài (từ thời Bách Việt cổ), giữa tiếng Việt và tiếng Choang (cũng như một số ngôn ngữ khác ở vùng này) đã có không ít nét tương đồng xét về vốn từ ngữ cơ bản, cũng như về cơ cấu ngữ âm và ngữ pháp.
Người Choang cũng như người Việt đã chịu ảnh hường sâu sắc cửa văn minh chữ Hán. Biểu hiện nổi bật của ảnh hưởng đó là cả người Việt lẫn người đều thu nạp và dung hòa rất nhiều từ ngữ gốc Hán vào tiếng nói của dân tộc mình, đồng thời lợi dụng nét bút và nguyên tắc biểu âm biểu ý của chữ Hán để tạo ra chữ viết hình vuông cho dân tộc mình. Đó là chữ Nôm của người Việt và chữ vuông của người Choang.
Chứng tích về chữ vuông Choang có niên đại sớm nhất hiện còn là tấm bia ĐẠI TỤNG BI (tên đầy đủ là Trừng Châu Vô Ngu huyện lục hợp kiên cố đại tụng bi), do Thứ sử Trình Châu là Nghi Kính soạn và dựng năm Vĩnh Thuần nguyên niên (tức năm 682), đời Đường. Trong tấm bia này cùng với chư Hán, thấy có nhiều chữ vuông được đọc và hiểu theo tiếng Choang. Ví như chữ
đọc là 那 na và có nghĩa là “ruộng” (田), là chữ mà trong các văn bản chữ vuông Choang và cả văn bản chữ Nôm Tày đều có mặt