Về những địa danh “thuần Việt” thời Hùng Vương
(Tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ TT-Huế, 4-1996)
Đây là bài viết của học giả An Chi, chủ thớt không đồng tình quan điểm cho rằng hễ từ thuần Việt nào nào phát âm giống từ tương đương ở Hán ngữ thì đều là từ gốc Hán (mà chẳng cần khảo kỹ về ngữ âm lịch sử). Tuy nhiên vẫn đăng lên đây để rộng đường dư luận.
THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN
THỬ TÌM HIỂU TỪ NGUYÊN MỘT SỐ CẶP TỪ VIỆT HÁN
0.Đặt vấn đề:
Trước hết thử xác định lại nguồn gốc người “Hán” hay “Hoa Hạ”.
Tham khảo bản đồ thiên di của nhân loại ở châu Á, tài liệu gốc từ Đại học Yale, Hoa Kỳ [i] :
Theo bản đồ này, người cổ đại đến lục địa Trung Hoa gồm 2 nhánh chính: Một nhánh [I] thiên di sớm từ đồng bằng sông Hồng tới đồng bằng Trường Giang khoảng 1.5 vạn năm trước, rồi đi tiếp đến vùng cửa sông Hoàng Hà khoảng 1 vạn năm trước. Một nhánh [II] muộn hơn, từ Miến Điện băng qua sườn đông Hy Mã Lạp Sơn đến cao nguyên Tây Tạng khoảng 1.5 vạn năm trước, rồi cũng đến lưu vực Hoàng Hà khoảng 8 ngàn năm trước.
Theo một số thông tin thảo luận chưa được kiểm chứng trên mạng[ii] thì Hán tộc vốn là “hòa hợp”của nhiều nhóm tộc, trong đó hai nhóm chính là nhóm thị tộc Hoàng Đế vốn gốc ở Hoàng Hà, theo ngôn ngữ Tạng-Hán nên chắc là bắt nguồn từ nhánh [II], và nhóm kia là thị tộc Thần Nông (Viêm Đế) vốn gốc ở Trường Giang, chắc bắt nguồn từ nhánh [I], ngoài ra còn có các nhóm tộc khác như thị tộc Cửu Lê của Xi Vưu cũng tham gia một phần vào cuộc hòa nhập này, số không chịu hòa nhập thì chạy lên vùng núi thành người Miêu, Dao hiện nay.
Trong bài này người viết muốn đặt vấn đề: phải chăng nhóm Bách Việt chính là nhóm [I] vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía Bắc hơn vạn năm trước đã đem vốn từ gốc phương Nam đóng góp vào Hán ngữ. Dưới đây là một số dữ liệu bước đầu tìm hiểu các vết tích ngôn ngữ phương Nam còn tồn tại trong tiếng Hán và chữ Hán.
1. Bắt đầu từ cặp từ Hà/Giang (河/江)
Nhiều tài liệu ngôn ngữ học đều thống nhất cho rằng từ giang 江 (nghĩa là sông trong tiếng Hán) có nguồn gốc phương Nam.
-Trước hết từ này vốn do nhóm Bách-Việt ở phương Nam (tạm gọi là Hán-Việt để phân biệt với nhóm Hán-Tạng), dùng để gọi sông Trường Giang (hay sông Dương tử), đối lập với các nhóm Hán-Tạng ở phía bắc thường gọi sông là “Hà” (như Hoàng Hà).
-Phần biểu âm của giang 江 vốn là chữ công 工, âm cổ “công” này hiện vẫn còn bảo lưu trong tiếng Quảng Đông [粤语], ghi âm đọc là “gong1” (TQ thường ký âm k- ra g-) như trong link sau : http://tool.httpcn.com/Html/Zi/28/PWMEMEILKOTBCUYF.shtml
-
-Giang vốn thuộc thanh mẫu kiến 見, vận mẫu giang 江, nhị đẳng, thiết âm trung cổ theo Đường Vận, Tập Vận, Vận hội là cổ song thiết (古雙切) tức âm “cong”. Vần ong/ông đã chuyển thành iang/ương muộn nhất cũng từ trước thời Trung nguyên âm vận (Chu Đức Thanh, năm 1324) vì trong sách đó đã chính thức xếp giang vào 1 nhóm chung với từ khương 姜, cương 疆…xem minh họa trong sách đó ở hình bên, (theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đại Cồ Việt thì thực ra quá trình biến âm này xảy ra sớm hơn, khoảng trước đời Đường).
-Gốc của 江theo nhiều nhà nghiên cứu có thể là krong/không/sông trong các ngôn ngữ phươngNam. Các nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Bernhard Karlgren, Vương Lực, William H.Baxter tái lập âm thượng cổ của nó lần lượt là ku ̆ŋ , keoŋ , kroŋ. Hãy chú ý tái lập của Baxter “krông”, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên Việt Nam hiện nay vẫn gọi sông là krông, có lẽ là bảo lưu từ thời thượng cổ, ví dụ Krông Pha tức thị trấn Sông Pha ở Ninh Thuận, lại còn có các huyện Krông Năng, Krông Ana,Krông Bông… ở Tây Nguyên.
-Con sông lớn Mekong hay “Mè Khỏng” trong ngôn ngữ Thái-Lào vốn có nghĩa là “sông mẹ”. Người Mường hiện vẫn gọi sông là “không”. Tiếng Việt tuy đã biến đổi khá xa thành “sông”, nhưng vẫn còn vết tích trong sách “An Nam dịch ngữ” thời Minh (thế kỷ15) ghi chép rằng “hà 河” tiếng Việt là “không 空”, ngoài ra sách đó lại ghi “giang 江” tiếng Việt là “sanh 生”, có lẽ chính là âm “sông”, vì âm Nôm của “sanh” là “sống”, tư liệu này cho thấy khả năng người Việt thời đó tuy đã đọc với phụ âm đầu “s-” nhưng vẫn còn giữ dạng đọc với phụ âm đầu “kh-” .
2. Xem xét tiếp cặp từ Thổ/Địa (土/地)
Các khảo sát về cặp từ đồng nghĩa Hà/Giang (河/江) đã gợi ý cho người viết bài này phải chăng cặp từ Thổ/Địa (土/地) cũng có nguồn gốc tương tự, nghĩa là Thổ có gốc Hán-Tạng phương Bắc, còn Địa 地 vốn có gốc Hán-Việt ở phương Nam ?
-Trước hết căn cứ vào chữ viết thì thấy chữ thổ phải có trước chữ địa vì chữ địa 地 được ghép từ chữ thổ 土 chỉ nghĩa với chữ dã 也chỉ âm, nên có thể ước đoán “địa” mới phổ biến trong tiếng Hán về sau khi các nhóm Hán-Tạng bành trướng về phía Nam, xâm lấn và “hòa nhập” với các nhóm gốc Hán Việt. Để kiểm tra ước đoán này người viết đã mở sách Kinh Thi ra đếm thử trong các bài thì thấy chỉ có 2 chữ địa, trong khi dùng đến 31 chữ thổ (!)
-Theo đối chiếu Việt – Mon – Khmer trong sách của Nguyễn Ngọc San “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử”thì chữ ĐAI nghĩa là đất trong Tiếng Việt (có trong từ “đất đai”) vốn có gốc từ tiếng Khmer “đây”.
-Bây giờ xét phục nguyên âm thượng cổ của địa 地 theo các nhà ngôn ngữ học:
oKarlgren là d’ia
oVương Lực là diai
oBaxter là djejs
Chúng ta thấy :
Âm do Baxter phục nguyên “đjêy” khá gần với tiếng Khmer gọi đất là “đây”.
Âm do Vương Lực phục nguyên “đjai” thì gần với tiếng Việt “đai” nghĩa là đất .
- Âm Quảng Đông, TQ gọi là Việt ngữ 粤语, của địa có một dạng là dei6, rõ ràng khá gần với “đây” Khmer và “đai” tiếng Việt[iii].
Nhân tiện xin trích dẫn một bài trong “Quốc Âm Thi Tập” thời Lê (khoảng cuối thế kỷ 15) đã dùng chữ “đai” một cách độc lập, không phải đi theo “đất” :
Giàu chỉnh chện, khó lai dai,
Vần chuyển lưu thông, há của ai ?
Vũng nọ ghe khi làm bãi cát,
Doi kia có thuở lút hòn ĐAI.
Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng,
Dại dột nào hay tiểu có đài ?
Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi ?
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai.
3. Xem xét tiếp cặp từ Túc/Chỉ (足/趾)
Người viết cho rằng đây cũng là một cặp đối lập Bắc/Nam, trong đó “chỉ” là một từ gốc phương Nam, cùng nguồn gốc với từ “chân” của tiếng Việt. Xét bảng so sánh âm Thượng cổ phục nguyên của một số chữ Hán sau :
Qua bảng trên người viết nhận thấy có một lớp từ mà Karlgren khôi phục với phụ âm cuối –g có sự đối ứng khá hệ thống với các từ đồng nghĩa của tiếng Việt mang phụ âm cuối –ŋ[iv].
Hình minh họa lấy từ sách của Karlgren [2] :
Hiện tượng ở tiếng Việt một số từ âm cuối –g thời thượng cổ có thể đã biến chuyển ra –ng, là những trường hợp khá “đặc dị” ít người nhận ra.
Như chữ “hỉ” âm cổ có thể là “hửng” (trong từ hí hửng) phù hợp với phục nguyên âm Hán Thượng cổ theo Karlgren là “xi ̯əg” (đọc gần như hưâg=hửng) sau đó -g biến ra -i (“xji” trong hình minh họa trên) nên ta có “hưâi” ứng với chữ “hởi” (trong từ hồ hởi), sau đó lại du nhập thêm âm “hỉ” trong thời Bắc thuộc. Thật may mắn cả 3 âm Hửng, Hởi, Hỉ đều còn tồn tại trong tiếng Việt giúp khẳng định quá trình biến âm mà Karlgren phục nguyên là có thật. Ví dụ khác là chữ “tự 似”= “tương tự, dường như”, Karlgren phục nguyên âm thượng cổ “dzi ̯əg” khá gần với chữ “dường” của tiếng Việt, dạng rụng phụ âm cuối “-ng” là “dựa” thì hiện nay không còn lưu, chỉ còn “tựa” (tự như); nhưng “tựa” với nghĩa động từ “tựa vào” thì tiếng Việt vẫn còn giữ âm “dựa”.
Chữ vụ 霧,Karlgren phục nguyên mi ̯ug , nếu chuyển -g=>-ŋ thì khá gần âm “mồng” tiếngViệt (vân mồng=mây mù), đồng thời tiếng Việt còn giữ cả âm trung gian là “mù”, là âm thông dụng ngày nay.
Đặc biệt, theoKarlgren chữ “chỉ 趾“và “chi 之“đều được phục nguyên âm thượng cổ là ȶi ̯əg . Âm thượng cổ này giải thích vì sao người Việt lại đọc “chi 之” là “chưng”, còn “chỉ 趾” là “chân”, giọng miền Nam là “chưn” hay “chưng”. Theo tài liệu Giáo trình Lịchsử ngữ âm tiếng Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì từ “chân” thời cổ vốn có âm cuối -ŋ, trích trang 199 sách trên:
“… chúng ta chỉ có hai ví dụ là từ chân và lên (và liên quan tới lên là từ trên). Ở hai từ này có lẽ ta phải phục nguyên *-ŋ cho thời Proto Việt Chứt, hay chậm nhất thì cũng cho thời Proto Pọng Chứt chung.”[v]
Cũng theo tài liệu của GS Cẩn thì thời Proto Việt Chứt tức thời Việt-Katu là trên 3.000 năm trước. Vậy khả năng phục nguyên “ȶi ̯əg” của “chỉ 趾”gần với từ cổ Việt “châŋ”, phải ứng với niên đại trên 3000 năm trước, tức ứng với cuối đời Thương của TQ, kết quả cũng giúp chúng ta có ước lượng khái quát về niên đại (mức cổ xưa) của cả nhóm từ liệt kê trong bảng, đó là những từ cổ Việt-Hán chứ không phải từ Hán-Việt du nhập thời Bắc Thuộc.
Chú thêm: Khả năng một số chữ Hán hiện đọc với vần “-i” thời cổ xưa đọc là “-ưng” còn vết tích khá rõ ngay cả trong Hán Ngữ, như chữ nghi 疑có một nghĩa trùng với chữ ngưng 凝, mà lại chung bộ phận biểu âm. Theo Karlgren âm thượng cổ của nghi là ŋi ̯əg còncủa ngưng là ŋi ̯əŋ, như vậy có thể đã tồn tại 1 xu hướng biến âm ở Hán Ngữ (nhưng ít còn lưu tích) là -g thượng cổ về sau chuyển thành -ŋ. Xu hướng này ở tiếng Việt có vẻ rõ rệt hơn, ví dụ chữ “vị 彙”người Việt vẫn quen đọc là “vựng”, mà tra các từ thư Trung Quốc thì không hề thấy ghi âm “vựng” này !
4. Xem xét tiếp cặp từ Xã/Lý (社/里)
Cũng trong thế đối lập trên,người viết dự đoán Lý 里(làng) là từ gốc phương Nam đối lập với Xã, và cùng gốc với cả hai từ “làng” và “chiềng” của tiếng Việt. Trong bảng phục nguyên âm thượng cổ ở trên Karlgren phục nguyên Lý 里là li ̯əg, mà phần trên đã chỉ ra khả năng –g có thể biến chuyển thành –ŋ trong tiếng Việt nên chúng ta có li ̯ə-ŋ đọc gần như lưâng hay lương, từ đó chuyển sang lang/làng không còn xa (so sánh phần vần của các cặp từ đương/đang, nương/nàng, trường/tràng…).
Sách Thuyết văn giải tự chú chữ Lý như sau: 里,[良止切],居也。从田从土。凡里之屬皆从里。Lý, [lương chỉ thiết], cư dã, tòng điền tòng thổ, phàm lý chi thuộc giai tòng lý.
Chú ý chiết tự của chữ Lý “trên điền dưới thổ” và nghĩa gốc là cư trú, thể hiện rõ nguồn gốc nông nghiệp của chữ này, cũng là của thị tộc Thần Nông vốn gốc ở vùng Trường Giang.
Nhân tiện bàn thêm: Âm cổ xưa của “làng” có lẽ chính là “chiềng”. Đi từ phục nguyên âm thời cổ li ̯ə-ŋ ta thấy phần vần vốn gần với “iêng”, còn việc phụ âm đầu l- có thể đọc ra ch- thì chúng ta có khá nhiều ví dụ: lạp/chạp, lang/chàng, lam/chàm, lồng/chuồng .v.v. So sánh xa hơn thì có cặp lải/chài (lải nghĩa là “lưới” trong tiếng Mường) mà phục nguyên âm cổ của chữ la 羅 tức là lưới trong tiếng Hán theo Vương Lực là “lai”, nếu không kể dấu thanh thì trùng khớp với tiếng Mường. Để thấy rõ hơn quan hệ giữa L- và CH- xin xem các cứ liệu phục nguyên âm thượng cổ theo Baxter:
臘(lạp/chạp) : c-rap
朗(lang/chàng) : c-raŋʔ
籠(lung/lồng, chuồng): b-rong
藍(lam/chàm) : g-ram
里(lý/làng, chiềng) : c-rjəʔ
羅(la/lưới, chài): c-raj
Và so sánh thêm tiếng Việt với tiếng Katu (phản ảnh của Proto Việt-Chứt):
Chrum = chồm lên
Chréh = chẻ (củi)
Chraih= chải (tóc)
G-roong= (cái)chuồng
Như vậy có mối tương quan giữa tổ hợp âm đầu C-R- (CHR-) và G-R- của Hán ngữ cổ theo Baxter, với CH- trong tiếng Việt cổ, vì lần ngược tới giai đoạn Việt-Katu thì thấy một số trường hợp CH- Việt vốn là CH-R hay G-R-.
Theo GS Nguyễn Tài Cẩn *R- trong Hán ngữ mới chuyển thành L- khoảng thời Tần-Hán, còn bên phía tiếng Việt thì dựa trên ví dụ về từ “chuồng” trong tiếng Katu người viết phỏng đoán G-R- có xu hướng chuyển thành CH- từ khá sớm, vì phụ âm CH- của tiếng Việt vốn có từ cổ xưa ít ra là thời proto Mon-Khmer[vi], nên khi tiếng Việt xảy ra xu hướng đơn tiết hóa thì tổ hợp G-R nhập vào CH- khá thuận lợi.
5. Về cặp từ Nội/Trung (內/中)
Trung tức là “trong” tiếng Việt, phục nguyên âm Hán thượng cổ của Baxter cho chữ TRUNG 中 là “k-ljuŋ”.
Bây giờ thử so sánh với từ tương đương trong tiếng Việt là “trong”: chữ Nôm trong sách “Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh” (viết tắt PT) ghi bằng chữ Hán công 工 ứng với âm cổ “cong”, theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn thì bản gốc diễn nôm PT có thể ra đời từ rất sớm, ngay thời Lý, “công/cong” có thể là cách ghi âm Việt cổ của “klong”, gần với phục nguyên của Baxter.
Tiếp tục tìm hiểu thêm một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong họ Mon-Khmer: tiếng Vân Kiều thì trong là “klống” (theo “Tiếng Bru-Vân Kiều”, Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, NXB KHXH, Hà Nội 1998, trang 322), tiếng Katu thì trong là “kơrloóng” (“Từ điển tiếng Cơ Tu –Việt, Việt – Cơ Tu”, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007, trang 112). Các dạng trên cũng đều khá gần với phục nguyên âm Hán thượng cổ của chữ Trung 中 theo Baxter. Mà chúng ta biết là vùng cư trú của hai nhóm tộc Katu, Vân Kiều từ Quảng Bình trở vào vốn tách khỏi cai trị của TQ từ rất sớm, khoảng thời Khu Liên lập nước Lâm Ấp năm 192. Có thể nói thực sự họ chưa bao giờ ở trong vòng kềm tỏa của phong kiến TQ, vì họ cư trú trên các vùng núi cao hẻo lánh. Ngay cả sau này vào các đời “thịnh trị” của chế độ phong kiến Việt Nam thì các vùng núi cao như Sơn La, Lai Châu… vẫn theo chế độ phụ đạo, các “khun”, “tạo” thủ lĩnh người dân tộc vẫn là “vua” trong lãnh địa của mình, nên ít chịu ảnh hưởng ngôn ngữ văn hóa của người Việt. Còn chính người Việt thì chỉ quen ở đồng bằng, hiện diện rất ít ở các vùng đó, chỉ từ sau 1954 và 1975 mới có chuyện người Việt ồ ạt lên các vùng cao “khai thác”…. Vì vậy rất khó tin là hai nhóm dân tộc thiểu số trên đã vất bỏ một từ rất gần lớp từ cơ bản của mình để dùng từ “trung” của người Hán vào thời Bắc thuộc ngắn ngủi 3 thế kỷ của vùng đất trên, truyền qua trung gian là người Việt. Giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ “trung” là một từ gốc phương Nam, vốn là từ rất cổ còn bảo lưu trong tiếng Hán giống như từ Giang=Sông. Xin nhấn mạnh đây chỉ là một giả thuyết mang tính cá nhân, chắc nhiều nhà nghiên cứu sẽ không đồng tình, vì nguồn gốc chữ Trung có vẻ khá phức tạp, giả định đó là một từ cổ khoảng trên 6.000 ngàn năm trước, lúc một dải Trường Giang về phía nam còn nói chung một thứ ngôn ngữ cổ là ngôn ngữ Nam Á (theo“Tìm hiểu tiếng Việt Lịch sử”, Nguyễn Ngọc San, NXB ĐH SP, Hà Nội 2003, trang14), với mức xa xôi như thế thì có thể khi đó hai nhánh ngôn ngữ proto Môn-Khmer với ptoto Miến-Tạng còn chưa tách xa nhau nhiều, nên rất khó để nói về việc “ai mượn của ai”.
6. Sơ kết
Giả thuyết về nguồn gốc phương nam của một số từ Hán ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Nam Á, chính do các nhóm tộc Bách Việt vốn từ đồng bằng sông Hồng thiên di về phía Bắc đóng góp vào Hán ngữ là một giả thuyết do tác giả bài này đề xuất, hiện chưa có thông tin về ý kiến tương tự của các tác giả khác hay của các nhà nghiên cứu tiền bối [vii]. Bài này bước đầu đã đưa ra được một số cứ liệu ngôn ngữ học so sánh nhằm sáng tỏ giả thuyết đó.
Gần đây có thông tin quan trọng đăng trên các trang mạng của Trung Quốc như sau: Tại khu di chỉ “Xẻng đá lớn” ở huyện Bình Quả, tỉnh Quảng Tây vừa khai quật được hơn chục mảnh đá có khắc hơn ngàn ký tự biểu ý cổ Lạc Việt. Các chuyên gia Trung Quốc nhận định niên đại của các mảnh đá này là vào thời đại đồ đá mới, cách nay 4000-6000 năm tức là vượt xa niên đại của chữ giáp cốt đời Thương ít nhất cũng hơn nghìn năm. Do đó vấn đề xác định ảnh hưởng của các ngôn ngữ phương Nam vào Hán ngữ càng trở lên có căn cứ xác đáng, cần được quan tâm nghiên cứu[viii].
[i]Bản đồ này lấy từ trang mạng http://www.tianyabook.com/qita/zhongguorencongnalilai/4.html, có ghi chú nguồn gốc “耶鲁大学李辉供图” tức là của Lý Huy Cung ở Đại học Yale, Hoa Kỳ. Như vậy có độ tin cậy hơn các tài liệu của Trung Quốc
.[ii]http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,8972,48172,quote=1
[iii]http://tool.httpcn.com/Html/Zi/23/PWPWKOPWAZUYMEKOAZ.shtml
[iv] Người viết tạm dùng tên “Cổ Việt” cho các từ tiếng Việt dẫn trong bảng trên, hiện chưa có đủ căn cứ để xác định chính xác chúng là từ Việt cổ hay phần lớn chúng là từ của tiếng Việt hiện đại, tuy nhiên nếu để ý có thể thấy ngữ âm của các từ này gần với âm Hán thượng cổ hơn Hán Trung cổ (Đườngâm)
.[v]Về nhận định của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho “chân” thời proto Việt Chứt vốn có phụ âm cuối “-ng”, có thể dẫn thêm tư liệu về tiếng Katu ở miền Tây Thừa Thiên: chân là “jung”, tức phụ âm cuối đúng là “-ng”.
[vi]Theo Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn, trang46-48, mục “Lai nguyên của CH-” thì CH- là một phụ âm cực cổ của tiếng Việt, có từ thời Proto Môn-Khmer với các từ như chó (*cuə), chấy, chết(*kacɛt), chín, chim (*cɨm) (theo G.Difflot)…
[vii]Xin tham khảo thêm loạt bài viết của tác giả Nguyễn Cung Thông về nguồn gốc của 12 con giáp và các bài sưu tầm giới thiệu các từ có thể có gốc phương Nam đã bị đào thải trong tiếng Hán trên trang http://www.viethoc.org/phorum.
====
Tài liệu tham khảo:
- 汉文典、高本汉、上海辭書出本社。1997。
- 中上古汉语音的纲要、高本汉、齐鲁书社、济南。1987
- The Austroasiatics in Ancient South China, 梅祖麟言语学论文集。商务印书馆出本。2000。
- 王力. 漢語字典.VươngLực “Cổ Hán ngữ tự điển”.
- A Handbook of Old Chinese Phonology, William H. Baxter, Mouton de GruyterBerlin – New York 1992.
- Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội.1995
- Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đạihọc Quốc gia , Hà Nội. 2000
- Về dấu vết chữ nôm kỵ húy trong sách “Phật thuyết”, Nguyễn Tài Cẩn, T/c Văn hóa Nghệ An, Số 7, 2010.
- An Nam Dịch Ngữ, Vương Lộc dịch và chú giải, nhà Xuất bản Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học. 1995.
- Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu Khoa học “Giáo trình dạy chữ Katu cho cán bộ người dân tộc”, Hoàng Huy Lập, Nguyễn Thị Sửu, Sở Giáo dục Thừa Thiên Huế, 2003.
- Từ điển Mường Việt, Nguyễn Văn Khang, Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2002.
- Tiếng Bru-Vân Kiều, Hoàng Văn Ma, Tạ Văn Thông, NXB KHXH, Hà Nội 1998.
- “Từ điển tiếng Cơ Tu –Việt, Việt – Cơ Tu”, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007.
- “Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử”, Nguyễn Ngọc San, NXB ĐHSP, Hà Nội 2003.
- Các bài viết của tác giả Nguyễn Cung Thông trên http://www.viethoc.org/phorum
Vài thông tin về người Lạc Việt
Sử ta ghi rõ Lạc Long Quân là cháu xa đời của Thần Nông.
Có nhiều vị “giả Tàu” có vẻ tức tối với chuyện này, mỉa mai là “thấy người sang bắt quàng làm họ” hay “chủ nghĩa tự tôn dân tộc quá khích”, thậm chí còn lớn tiếng mạt sát các sử quan Đại Việt đã bịa chuyện v.v… Chẳng qua là học giọng điệu trịch thượng kiểu con trời ! Thần Nông đâu phải dân Hán gốc ở lưu vực Hoàng Hà, mà là dân Bách Việt ở lưu vực Trường Giang, ngôn ngữ của thị tộc Thần Nông có khả năng rất giống tiếng Việt cổ (tất nhiên không phải tiếng Việt-Mường ngày nay, mà là proto Việt-Katu khoảng hơn 4000 năm trước).
Vài thông tin đáng lưu ý, lấy từ chính sử Tàu hoặc các trang mạng của Tàu:
1. Sách Hậu Hán Thư, một trong các sử chính của Tàu, trong truyện Tang Cung cho biết người Lạc Việt từng cư trú ở huyện Trung Lư, nay là huyện Nam Chương, thủ phủ là Tương-Phàn thị.
Các bạn trẻ ít đọc sử chắc không rõ “Tương Phàn thị” là ở đâu, nhưng nếu lấy truyện kiếm hiệp Kim Dung ra nói Tương là thành Tương Dương, nơi đại hiệp Quách Tỉnh và Dương Quá đại chiến với quân Mông Cổ, và Dương Quá một cái búng tay giết tươi vua Mông Cổ là Mông Kha (anh của Hốt Tất Liệt) thì chắc rất nhiều Kim-Dung-Tàu-Đệ-Tử biết ngay. Còn Phàn là Phàn Thành, đối diện Tương Dương ở bờ bắc sông Hán Thủy cũng được nhắc nhiều trong truyện Tam Quốc, là nơi Quan Công xả nước vào thành, bắt sống Bàng Đức …
Điều lạ lùng là huyện Trung Lư ở ngay gần Liệt Sơn, quê hương của Thần Nông, lị sở vốn là Tương Phàn Thị chỉ cách Liệt Sơn có 60-70km đường chim bay.
Nếu người Lạc Việt vốn ở đó từ 4-5 ngàn năm trước, cùng thời với Thần Nông và định cư ở bên cạnh thị tộc Thần Nông suốt hơn 2 ngàn năm cho tới lúc được Hậu Hán thư ghi chép … thì không lẽ không học được nền văn minh lúa nước của thị tộc Thần Nông, không hề ảnh hưởng lẫn nhau về ngôn ngữ-văn hóa, không có sự pha trộn về huyết thống ? (tại hạ muốn giữ bài viết nhã nhặn lịch sự, tránh khiêu khích nên không muốn hỏi ngược lại là phải chăng chính thị tộc Thần Nông học nghề trồng lúa nước của người Lạc Việt ? )
2. Trang mạng của Tàu (http://www.12edu.cn/lunwen/wxlw/200902/246579.shtml) khi khảo cứu về ảnh hưởng của thi ca dân gian Lạc Việt trong thơ Khuất Nguyên đã ghi rõ vùng Tương Giang, phía nam hồ Động Đình, tức phía nam của tỉnh Hồ Nam, nơi Khuất Nguyên bị đi đày và sáng tác ra các tác phẩm Li Tao, Thiệp Giang … nổi tiếng, vốn là đất cổ Lạc Việt.
Điều bất ngờ hơn nữa là lăng Viêm Đế (Thần Nông) lại nằm chính trên đất cổ Lạc Việt này, ở huyện Viêm Lăng, cách Hành Dương thị khoảng 150km về phía đông nam. Sử kí sách ẩn của Tư Mã Trinh cũng nói Viêm Đế Thần Nông sinh ở Hồ Bắc, táng ở Hồ Nam, vùng Trường Sa, nhưng không nói cụ thể là ở vùng lưu vực sông Tương, khá xa về phía Nam, gần với Ngũ Lĩnh hơn là phía hồ Động Đình. Xem bản đồ, Viêm Lăng phiên chữ Latinh là Yanling:
[map:http://maps.google.com/?z=8&ll=26.518425,113.738708&om=0 600 450]
Chú ý rằng vua Sở Hùng Cừ từng “hiên ngang” tuyên bố “Ta là người Man, ta không chịu nhận thụy hiệu của vua nhà Chu”, tức người Sở vốn không phải Hán tộc, vậy mà vùng sông Tương lại còn ở xa hơn nữa về phía nam của nước Sở. Theo một thông tin trên diễn đàn viethoc.org/phorum thì khoảng 400 năm trước công nguyên nước Sở mới chiếm được vùng Hồ Nam và Tương Giang của người Việt, lúc Khuất Nguyên bị vua Sở đày xuống vùng này thì nơi đây vẫn còn bị coi là vùng đất biên thùy hoang vu nơi ở của các giống dân “dã man”: ở lõa, khắc trán, giao chỉ (chéo chân hay chéo ngón chân ?) .
Như vậy suốt 2 ngàn năm từ thời Thần Nông cho tới khi vùng đất Tương Giang thuộc Sở rồi thuộc Hán, thì vùng này là chỗ định cư của người Lạc Việt, lúc đó Hán tộc chính thống còn quanh quẩn ở lưu vực Hoàng Hà ! Vậy nhóm tộc nào đã coi sóc, bảo tồn lăng Thần Nông suốt 2 ngàn năm đó ? Phải chăng thời đó người Lạc Việt chưa có tinh thần “chống Hán-bài Khựa” như người Việt Nam hiện nay, hay đơn giản là người Việt đã nhận Thần Nông là gốc tổ của mình ngay từ thời đó và coi sóc lăng đó, chứ không phải đến thời Đại Việt Sử Ký Toàn Thư mới bịa đặt ra chuyện Lạc Long Quân là cháu chắt của Thần Nông ?
Sử Việt nói: Đế Minh là cháu 3 đời của Thần Nông đã phân đất cho hai người con, Đế Nghi là anh được nối ngôi ở phương bắc, Kinh Dương Vương Lộc Tục là em được cho cai quản vùng đất phía nam, gọi là nước Xích Quỷ, đến đời Lạc Long Quân Sùng Lãm là con của Kinh Dương Vương mới xuống định đô ở Phong Châu, thuộc châu thổ sông Hồng. Phải chăng Xích Quỷ thời đó chính là vùng Tương Giang và Quảng Tây ngày nay ? Chú ý lúc đó vùng đồng bằng cửa sông Châu Giang (Tây Giang) ở Quảng Đông có lẽ còn ngập chìm dưới mực nước biển do hiện tượng biển tiến Flandri đạt cực đại cách nay khoảng 6000 năm, nên tạm thời không kể đất Quảng Đông vào nước Xích Quỷ.
3. Vừa rồi lại có thông tin về việc tìm thấy chữ biểu ý Lạc Việt ở khu di chỉ “Xẻng đá lớn” ở huyện Bình Quả, tỉnh Quảng Tây, niên đại hơn 4000 năm tức là phù hợp với thời đại sau Thần Nông tiếp đến các đời Đế Minh, An Dương Vương, Lạc Long Quân … (xem thông tin ở bài “Chữ biểu ý Lạc Việt niên đại hơn 4000 năm” trong web này). Hơn bốn ngàn năm tức là cổ hơn loại chữ Giáp Cốt đời Thương đến hơn ngàn năm !
Vấn đề ai là chủ nhân của chữ viết này còn chưa rõ ràng, nhưng chính sách Tàu (Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 519—581) thì đã viết rõ Lạc Việt là ở Giao Chỉ, tức miền Bắc VN, nguyên văn: “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu…”. Về chữ Lạc Việt, trước đây chỉ biết Hậu Hán Thư là sách sớm nhất đề cập, ví dụ trong Mã Viện truyện có viết: “Viện thích ngựa, giỏi phân biệt giống ngựa, vào Giao chỉ lấy được trống đồng của người Lạc Việt bèn đem đúc ngựa”, riêng chữ “Lạc” thì từng có trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, trong Nam Việt Úy Đà truyện đã nhắc tới địa danh Âu Lạc ví dụ thông tin “Triệu Đà chiếm Âu Lạc sau khi Cao hậu chết 1 năm” . Gần đây trên trang “Lạc Việt” của TQ có bài của Đàm Thánh Mẫn (www.luoyue.net) , có dẫn ra nguồn sớm hơn trong Lã Thị Xuân Thu, tức là thời Lã Bất Vi (292-235 TCN), sớm hơn Tư Mã Thiên (145 TCN – 86 TCN) hơn một thế kỷ . Nguyên văn Lã Thị Xuân Thu như sau “和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌 hòa chi mĩ giả: Dương phác chi khương, Chiêu dao chi quế , Việt Lạc chi khuẩn ” Cao Dụ 高诱 chú “越骆,国名。菌,竹笋”= “Việt Lạc: quốc danh. Khuẩn: măng trúc”, Đàm Thánh Mẫn giải thích Việt-Lạc cũng là Lạc-Việt, do thứ tự cú pháp tiếng Việt đặt ngược với tiếng Hán mà ra.
Các thông tin trên cũng không mẫu thuẫn với việc sử Việt từng ghi rõ là “nước” ban đầu của Kinh Dương Vương là nước Xích Quỷ ở đâu đó ngay phía nam hồ Động Đình trải dài xuống phía Nam, còn cương vực nhà nước Văn Lang của Hùng vương thì phía bắc đến tận Hồ Động đình.
Vùng Ngũ Lĩnh (Vạch màu xanh lá cây):
Kết nối các thông tin trên chúng ta thấy rõ bản đồ định cư của người Lạc Việt tiếp nối liên tục suốt từ vùng đất Trung Lư gần Liệt Sơn ở Hồ Bắc, qua vùng Hồ Động Đình và vùng lưu vực sông Tương ở Hồ Nam, rồi qua vùng núi Quảng Tây, tới vùng châu thổ Sông Hồng (Hà Nội), không có khoảng đứt đoạn nào cách xa quá vài trăm cây số.
4. Về quan hệ ngôn ngữ của các nhóm Lạc Việt cũng có những điểm ảnh hưởng đến nhau khá rõ. Cụ thể là giữa nhóm ngữ hệ Thái-Kadai của các tộc Choang, Lê, Tày, Nùng, Thái với ngữ hệ Môn-Kmer của người Việt, Mường, tham khảo bài viết: (http://www.viethoc.org/phorum/read.php?20,56592)
Ở đây chỉ tóm tắt lại vài thông tin:
– “Ngựa” đa số các nhóm Choang-Lê-Thái đều gọi là “mã” như người Hán, nhưng nhóm Choang ở Lang Giá, Quý Châu, gọi là “nga” như người Việt.
– “Ngủ” đa số các nhóm Choang đều gọi là “nòn”, nhưng nhóm Lục Chi và Ba Cáp gọi là “ngu” như người Việt.
– “Con bò” phần nhiều các nhóm Choang đều gọi là “ngú” (liên qua tới ngưu của tiếng Hán ?), nhưng có một số nhóm lại gọi là “bo/po” gần với tiếng Việt, hay “mo” gần với tiếng Mường…
– Con lợn tiếng Choang, Tày Nùng, Thái đều gọi là “mu”, nhưng riêng nhóm Choang vùng Liễu Giang và Nghi Sơn gọi là “hjai” gần với “hợi 亥”, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cung Thông thì “hợi” có nguồn gốc từ “cúi” của người Việt.
Khả năng những từ trên là vay mượn hay chịu ảnh hưởng của tiếng Việt, chẳng hạn “ngựa”, trong các nhóm Việt-Môn-Khmer vốn là từ song tiết “ma-ngơ”, còn lưu tích trong cách đọc “bà ngựa” ở thơ quốc âm Nguyễn Trãi: “Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn … ”
Tất nhiên đã nói về ảnh hưởng Việt Mường trong các ngôn ngữ Choang-Thái thì để công bằng cũng phải xét tới chiều ảnh hưởng ngược lại từ các nhóm Thái-Kadai tới tiếng Việt, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn từng đề cập vấn đề này trong cuốn “Lịch sử ngữ âm tiếng Việt”. Trong phạm vi bài viết có tính cách “blog” này tại hạ chỉ xin dẫn vài ví dụ về các từ kép Việt-Thái:
– Chó má
– Tre pheo
– Chân cẳng
– Áo xống
– Súng ống
– Gà qué …
Trong các từ này thì chữ đứng sau chính là các từ gốc Thái-Kadai, đồng nghĩa với chữ tiếng Việt đứng trước, cấu trúc kết hợp hai từ này biểu thị nghĩa khái quát chỉ chung về loại vật đang nói. Các từ gốc Thái này đã du nhập vào tiếng Việt từ lâu đời, và ngày nay một số đã bị đào thải nên người Việt cũng không hiểu nếu nó đứng tách riêng (như “ma” tiếng Thái và tiếng Choang, Tày, Nùng đều có nghĩa là “chó”, “xống” có nghĩa là áo mà tiếng Thái vùng Sơn La đọc là “xuổng” ). Cũng có những từ như “pheo” hay “cẳng” thì người Việt vẫn hiểu khi đứng riêng, nhưng ít được dùng hơn, điều đó chỉ ra gốc ngoại lai của chúng …
=============
Tham khảo các bài trên trang “Lạc Việt” của Đàm Thánh Mẫn 覃圣敏:
瓯骆古都及其南迁
Kinh đô cổ của người Âu-Lạc và sự di chuyển về phía nam của nó
[www.luoyue.net]
西瓯骆越新考
Khảo cứu mới về Tây Âu-Lạc Việt
[www.luoyue.net]