Thượng cổ Hán ngữ – 上古汉语

Thượng cổ Hán ngữ tức là Hán ngữ thời Chu

(http://www.baike.com/wiki/%E4%B8%8A%E5%8F%A4%E6%B1%89%E8%AF%AD)

Tại hạ tạm đưa nguyên văn chữ Hán lên blog, có dịp rảnh sẽ dịch dần … :) 

上古汉语指的是周朝时期的汉语,无声调说,有次要音节说。

Thượng cổ Hán ngữ là thuật ngữ chỉ Hán ngữ thời nhà Chu, không có thanh điệu và có tiền âm tiết (âm tiết thứ yếu).

上古汉语指的是周朝时期的汉语。上古汉语的构拟不建立在历史比较法的基础上,其原则和印欧语完全不同。上古音研究的基本方法上从中古汉语(《切韵》音系)倒推上古音 。在中古音的基础上,可以用《诗经》的韵部和谐声系列来推测古代的发音,还可以用汉语方言的存古特征和一些外部证据(汉藏语系壮侗语系苗瑶语系等语言中的汉语同源词借词)。
Thượng cổ Hán ngữ tức là Hán ngữ thời Chu. Phục nguyên Thượng cổ Hán ngữ không thể đặt cơ sở trên phương pháp so sánh lịch sử, nguyên tắc khác nhiều với ngôn ngữ Ấn Âu.  Phương pháp cơ bản để nghiên cứu Thượng cổ âm là dựa theo Trung cổ Hán ngữ (là hệ thống âm vận của sách “Thiết Vận”) mà suy ngược ra âm thượng cổ. Trên cơ sở âm Trung cổ có thể dùng hệ thống vận bộ và sự hài thanh của các bài “Kinh Thi” mà suy luận ra phát âm cổ đại. Ngoài ra có thể suy luận từ các phương ngôn Hán ngữ còn bảo tồn các đặc trưng cổ và các cứ liệu so sánh với các ngôn ngữ họ hàng (các từ đồng nguyên hoặc vay mượn trong Hán Tạng ngữ hệ, Tráng Đồng ngữ hệ, Miêu Dao ngữ hệ).
(Chủ thớt thắc mắc: Theo GS Nguyễn Ngọc San thì khoảng 6000 năm trước toàn bộ vùng từ Trường Giang về phía Nam còn nói chung 1 thứ ngôn ngữ Nam Á, mà một trong các đại biểu chính hiện nay là nhóm Môn-Khmer, thế mà trang web của người TQ này chỉ đề cập quan hệ của các ngữ hệ Hán Tạng, Tráng Đồng, Miêu Dao. Phải chăng người TQ có tư tưởng kỳ thị nhóm Môn-Khmer cụ thể là người Việt, coi đó là giống dân “man di của man di”, nên đã thẳng tay gạch bỏ  mối quan hệ giữa ngữ hệ Mon-Khmer với Hán-Tạng khi viết bài này ?)   

韵部


汉 语发音从《诗经》到南北朝已经发生了重大的变化,南北朝人读先秦文献的时候,发现有许多押韵不和谐的地方了。当时人对《诗经》的注解反映他们遇到的困难: 当《诗经》的韵脚不押韵时,他们牵强的改其中一个字的音使其押韵,认为这样读起来更加和谐。例如:《诗经·邶风·燕燕》“燕燕于飞,上下其音,之子于归, 远送于南”中的“音”和“南”两个字押韵。北梁人沈重在《毛诗音》中指出:“南:协句,宜乃林反”。他用反切的方法标注他认为正确的读音(用普通话读,他 把“南”字的方音改成nín)。这个方法叫做“协韵”。

隋朝人陆德明认为不应该使用协韵法,因为他认为古代人押韵不严谨,没有必要改正《诗经》的读音。他指出:“沈云协句宜乃林反,今谓古人韵缓,不烦改字”。

宋朝朱熹等 人继承了南北朝的协韵法(亦稱「-{叶音}-」),并非常系统的用这个方法来改正《诗经》和《楚辞》里所谓“不和谐”的韵脚字的读音。他们认为,古人对韵 脚字可以临时改读,他们还没有发现随着时间的推移发音变化的原则,他们以为先秦时代的古人的发音和宋朝人一样。但是,在这个时代,吴棫在 《毛诗叶韵补音》等著作中发现《诗经》的押韵现象是有规则的,他通过对韵脚字系统的考察,把中古韵类归纳成九个韵部。虽然吴棫缺乏明确的历史概念(他把唐 宋和先秦的韵脚字混为一谈)他的研究迈出了進入正确的路线的第一步,为后代的学者开辟了研究古音的新途径。除了他以外,郑庠、项安世、程迥等人进行了古音 的研究。

最早用科学的方法研究上古音的学者是顾炎武。他继承了陈第的想法,认为“古诗无叶音”, 并旨在恢复古代汉语的发音(“复古”)。他发明了“离析唐韵”的研究方法:把《诗经》的韵脚整理起来,分析这些字的押韵行为。在《诗经》押韵的字通常属于 《广韵》的不同韵类,这是因为这些字的韵母在上古音相近或者相同,后来到中古音变得不一样。但是,上古音的押韵行为有理可寻,可以按照这些押韵行为把中古 韵类分配成几个组,这些组叫做“韵部”,同一个韵部的中古韵类可以在《诗经》押韵,但是有些中古韵类同时出现在几个不同韵部。顾炎武把韵类归纳成十个韵 部。虽然他对韵部的划分不够严谨,忽略了许多重要的对立,但是他建立了上古音研究的奠基,一直到现在,他的“离析唐韵”是上古音构拟的原则之一。

清朝学 者构拟古音的方法与现代语言学家不同。他们当时认为,属于同一个韵部的中古韵类在上古时代有相同的发音,后来其中一个韵类(“古本韵”)保留了原始的发 音,其他的韵类发生了变化(“变韵”)。这个构拟方法有严重的缺陷。第一,没有解释“变韵”发生变化的条件:按照语言学的定论,语音变化有一定的规则,如 果某些字在上古时代有完全相同的读音,没有理由分化出来(除非发生了方言混合)。第二,我们现在知道,上古汉语的一些韵部的发音和与其对应的任何一个中古韵类的发音都不一样,没有一个中古韵母保留了原始的发音(没有“古本韵”)。例如:歌部构拟成

  • -ar或者*-aj(还有元音长短等特征),和来自歌部的中古韵类如歌韵(中古*-a),鱼韵(中古*-ø),马韵(中古*-ɣa),模韵(中古*-o)的发音都不相同。

上古汉语无声调说


1954年法国学者奥德里库尔(Haudricourt)通过历史比较法的考察,发现越南语的声调是已经脱落了的韵尾的痕迹,这些韵尾在比较原始的亲属语言中(如克木语)仍然存在。他发现,越南话的上声来自喉塞音,去声来自-s。由于越南话和汉语的声调系统很相似,他提出汉语的声调有同样的来源,上古汉语没有声调。

这个假设得到了很多印证,最明显的一个是可以自然的解释“阴入韵对转”:

Giả thuyết về việc Hán Ngữ thượng cổ không có thanh điệu.
Kết luận này do học giả người Pháp Haudricourt khởi xướng dựa trên nghiên cứu sự đối ứng thanh điệu của tiếng Việt (Nam) trong các từ gốc Môn-Khmer với âm cuối cổ xưa của các từ đó còn lưu giữ trong các ngôn ngữ bà con gốc Môn-Khmer: thượng thanh đối ứng các âm cuối tắc thanh hầu -?, khứ thanh đến từ các âm cuối -s. Kết luận này hiện đã được thừa nhận rộng rãi.

上古汉语有次要音节说


以前普遍认为上古汉语是一种以单音节为主的语言,每一个汉字代表一个音节。但是近几年,中国学者潘悟云和法国学者沙加尔不谋而合达到了一致的结论:上古汉语不仅有複辅音,也有次要音节,汉朝以前,一个汉字可以代表两个音节:次要音节和主要音节,第一个音节是弱化音节,其主元音为ə,没有韵尾。这个结论目前还存在争议。

Giả thuyết về việc Hán ngữ thượng cổ  có tiền âm tiết (âm tiết phụ):
Xưa nay người ta cho là Hán ngữ thượng cổ đã đơn âm hóa triệt để, nhưng gần đây có giả thuyết của Phan Ngộ Vân và Sa Gia Nhĩ (Laurent Sagart) cho rằng Hán ngữ thượng cổ vẫn có cả phụ âm kép lẫn tiền âm tiết (âm tiết phụ).
Giả thuyết này còn đang tranh luận.

上古汉语的形态变化


由 於汉字系统不能直接反映上古汉语的形态变化,因??里出现的异读现象。例如:“解”,有几个读音:中古「古隘切」(見母开口佳韵上声,普通话jiě)和中 古「胡買切」(匣母开口佳韵上声,普通话xiè);第一个有清声母(见母,中古k-)有主动意义,是及物动词,第二个有浊声母(匣母,中古ɦ)有被动意 义:声母的清浊和动词的主动/被动性有直接的关系。有些专家认为是某种前缀导致动词声母的浊化。

有时候,不同汉字可以代表同一个词根的几 个形态,例如:“见”(中古”古電切”見母开口先韵去声)代表主动意义,“现”(中古”胡甸”匣母开口先韵去声)代表被动意义,这对动词类似于上 述“解”字的两个读音,但与之不同的是,这里使用两个符号来区分主动和被动的读音。

Tân niên khai bút

癸 巳 春 回 舊 帝 京

東 芭 門 外 富 和 亭

菩 提 江 岸 連 根 樹

微 雨 熏 風 芽 葉 生

Quý Tỵ xuân hồi cựu đế kinh

Đông Ba môn ngoại Phú Hòa đình

Bồ đề giang ngạn liên căn thụ

Vi vũ huân phong nha diệp sinh.

***

迎 春 我 買 一 桃 瓶

不 逢 時 節 花 謝 生

如 謂 人 間 誰 不 老

五 十 知 天 語 有 經

Nghênh xuân ngã mãi nhất đào bình

Bất phùng thời tiết hoa tạ sinh

Như vị nhân gian thùy bất lão ?

“Ngũ thập tri thiên”, ngữ hữu kinh.

 

Cước dẫn:

- Tại hạ bản tính không thích “hoa hòe hoa sói”, nhưng theo lệ tết đến cũng phải đi mua 1 chậu hoa để ngoài cửa. Tết này chiều 28 cơ quan mới nghỉ việc, bèn chạy đi mua chậu hoa… Ở Huế mai và cúc rất nhiều nhưng tại hạ lại thích hoa đào trồng ở miền Bắc vận chuyển vào cho có phong vị đất Bắc. Tiếc là năm nay gần cả tháng trước tết thời tiết ấm áp nên đào nở sớm, dạo khắp đoạn đường bán hoa đào thấy cây nào hoa cũng tàn nhiều rồi, bèn lấy đại một chậu, nhân đó có đề tài làm bài thơ trên :)
- “Ngũ thập tri thiên mệnh” là câu trong kinh sách (Luận Ngữ).

 

Về những địa danh “thuần Việt” thời Hùng Vương

(Tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ TT-Huế, 4-1996)

Đây là bài viết của học giả An Chi, chủ thớt không đồng tình quan điểm cho rằng hễ từ thuần Việt nào nào phát âm giống từ tương đương ở Hán ngữ thì đều là từ gốc Hán (mà chẳng cần khảo kỹ về ngữ âm lịch sử). Tuy nhiên vẫn đăng lên đây để rộng đường dư luận.

Trong bài “Nước Văn Lang và cương vực của nó qua tài liệu ngôn ngữ học” (1), Hoàng Thị Châu đã cho rằng yếu tố “Kẻ” và những địa danh đi liền sau nó như “Mẩy”, “Cót”, “Vòng”, v.v.. (thành “Kẻ Mẩy”, “Kẻ Cót”, “Kẻ Vòng”, v.v..) là những tên Nôm làm thành một “hệ thống tên xã thôn (…) hoàn toàn khớp với cương vực nước Văn Lang được ghi lại trong truyền thuyết dựng nước” (2). Sau đó, nhiều người đã xem đây gần như là điều hiển nhiên, không cần phải lật đi lật lại, rồi Nguyễn Linh, trong Thời đại Hùng Vương (3), đã lấy lại lập luận của Hoàng Thị Châu để phổ biến cho người đọc như là những tín điều chẳng có gì cần phải bàn cãi. Thực ra, lập luận của hai tác giả trên đây đã có những chỗ sơ hở rất quan trọng nên không thể chống đỡ được cho kết luận mà họ muốn mọi người đều xem là sự thật hiển nhiên. Chúng tôi đã có phản bác một phần của lập luận đó và chứng minh rằng “kẻ” là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ  mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là giới, âm Hán Việt hiện đại ít thông dụng hơn là giái, còn âm chính thống thì lại là cái (“cổ bái thiết”) (4). Vì vậy, trong bài này chúng tôi sẽ không trở lại với từ “kẻ” mà chỉ chứng minh rằng những cái gọi là tên Nôm hoặc “thuần Việt” như Mẩy, Cót, Vòng, v.v.. chẳng qua chỉ là âm xưa của những chữ Hán nay đã được đọc theo âm Hán Việt hiện đại mà thôi.
Để bắt đầu, xin phân tích tên  là một địa danh cổ xưa từ lâu đã trở thành quá quen thuộc với người Hà Nội. Địa danh này có liên quan đến tên Hán Việt hiện đại của các làng Hoàng Mai, Tương Mai và Mai Động. Theo Bùi Thiết thì:
“Hoàng Mai và Tương Mai có tên Nôm là Kẻ Mơ hay gọi là làng Mơ nhưng Hoàng Mai là Mơ Rượu vì làng này có nghề nấu rượu cổ truyền với rượu mơ nổi tiếng thời trước, còn Tương Mai là Mơ Cơm vì làng này chuyên bán hàng cơm. Làng Mai Động cũng gọi tên Nôm là Mơ nhưng gọi là Mơ Táo. Kẻ Mơ hay ba làng Mai nói chung nằm kề góc đông nam của kinh thành Thăng Long xưa, được khai phá từ rất sớm (…) Thời nhà Trần, khu vực này là thái ấp Cổ Mai (hay trang Cổ Mai) mà các vua nhà Trần phong cấp cho anh em Trần Khát Chân và Trần Hãn” (5).
Thực ra, chẳng phải chỉ có Hoàng Mai, Tương Mai và Mai Động mới có tên “Nôm” là ; các làng cổ mà tên Hán Việt hiện nay có yếu tố Mai, ghi bằng chữ , thì đều có tên “Nôm” là . Thôn Mai Châu, thuộc xã Đại Mạch, một trong 23 xã của huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, cũng có tên “Nôm” là làng  (6). Thôn Mai Trai, thuộc xã Vạn Thắng, một trong 32 xã của huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội, cũng có tên “Nôm” là làng  (7).
Cái mà Bùi Thiết, và nhiều người khác nữa gọi là tên Nôm trên đây, chẳng qua chỉ là âm xưa của yếu tố Hán Việt hiện đại mà thôi:  là âm xưa của mai . Điều này đã được ngữ âm học lịch sử khẳng định và sau đây là lời của Nguyễn Tài Cẩn:
“Hiện ta có từ  là dạng cổ Hán Việt ứng với cách đọc Hán Việt maiMai là kết quả của cả một quá trình diễn biến  *əj > oj > aj.  là dạng vay mượn vào lúc âm cuối *-j chưa xuất hiện trong tiếng Hán: theo giới Hán ngữ học, mơ phải được vay trong khoảng từ 1500 năm trở về trước. Mà trong thời cổ đại đó thì – cũng theo sự phục nguyên của giới Hán ngữ học – từ mai đang có vần mở là *ə; vần *ənày không chỉ có mặt trong thời Đông Hán, Tây Hán mà còn lên đến tận thời Kinh Thi” (8).
Cứ như trên thì  là dạng cổ của mai nhưng trong tiếng Việt hiện đại thì giữa hai từ cùng gốc này đã có một sự phân công rành mạch về ngữ nghĩa: Mơ là một loại cây mà tên khoa học là Prunus armeniaca Lin, thuộc họ hoa hồng (Rosaceae); còn mai thì lại là một loại cây mà tên khoa học là Prunus mume S. et Z., cũng thuộc họ hoa hồng như cây mơ (9). Một sự phân công như thế là điều hoàn toàn dễ hiểu và đây là một hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, chẳng hạn cùng một gốc Germanic mà tier của tiếng Đức có nghĩa là thú vật nói chung còn deer của tiếng Anh thì chỉ là hươu, nai.
Trở lên, sở dĩ chúng tôi phải dài dòng như thế là để chứng minh rằng, dù diễn biến ngữ âm và ngữ nghĩa của nó có quanh co đến đâu thì mơ vẫn là một yếu tố mà lai lịch có thể được xác minh một cách rõ ràng và đó rõ ràng là một từ Việt gốc Hán có liên quan đến chữ/từ  mai . Đó dứt khoát không phải là một yếu tố Nôm, thuần Việt hoặc Việt cổ và đây tất nhiên không phải là trường hợp duy nhất vì ngoài nó ra thì còn rất nhiều, rất nhiều ca giống như nó mà sau đây chỉ là thêm một số thí dụ, cũng lấy từ sách đã dẫn của Bùi Thiết (số ghi trong ngoặc đơn sau mỗi thí dụ là số trang trong sách này):
Núc là âm xưa của Canh Nậu (32); Vài, của Ngọc Nhị (35); Gượm, của Cần Kiệm (37); Noi, của Cổ Nhuế(52); Vườn, của Cổ Nhuế Viên (52); Núc, của Dị Nậu (56); Vòng, của Dịch Vọng (57); Mẩy của Mễ Trì (57); Cói, của Cối Giang (85); Hóc của Minh Húc (93); Tạnh của Quán Tình (104); Then, của Kim Sơn(130); Keo, của Giao Tất (130); Bưởi của Bái Ân (155), Nghè, của Trung Nha (157); Bún, của Phấn Hạ (160); Vẹt, của Việt Yên (163); Mọc, của Nhân Mục (164); Nành, của Phù Ninh (167); Sủi của Thổ Lỗi(183): Gùn, của Siêu Quần (212), Ngâu, của Yên Ngưu (218); Ngà, của Miêu Nha (231); Đìa, của NgọcTrì (232); Gạch, của Ô Cách (244, 245); Cót, của Yên Quyết (268); Lềnh, của Linh Thượng (284);Ngò, của Ngô Khê (286); v.v..
Trong những cặp tương ứng trên đây, tiếng đầu (Núc, Vài, Gượm, v.v..) là âm xưa, còn tiếng sau (Nậu, Nhị, Kiệm, v.v..) là âm nay của cùng một chữ Hán trong những địa danh hữu quan và sự tương ứng đó là hoàn toàn nhất quán trong các địa danh chỉ nhiều địa phương khác nhau, thậm chí cách nhau rất xa. Thí dụ: Núc không chỉ là âm xưa của Nậu trong Canh Nậu, Dị Nậu, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, mà còn là âm xưa của cả Nậu  trong tên của xã Dị Nậu, ở gần Tam Đảo, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Then không chỉ là âm xưa của Sơn  trong Kim Sơn nay thuộc ngoại thành Hà Nội mà còn là âm xưa của cả Sơn trong địa danh Bình Sơn, nơi có tháp Bình Sơn nổi tiếng, tục gọi là tháp Then, thuộc tỉnh Phú Thọ hiện nay. Gạch không chỉ là âm xưa của Cách   trong Ô Cách nay thuộc ngoại thành Hà Nội mà còn là âm xưa của cả Cách trong địa danh Bình Cách, thuộc huyện Đông Quan (cũ), tỉnh Thái Bình.
Vậy Núc, Then, Gạch, v.v.. và tất cả các tiếng đầu trong những cặp tương ứng trên đây không phải là những tên Nôm, thuần Việt, hoặc Việt cổ như Bùi Thiết và nhiều nhà nghiên cứu khác đã ngộ nhận. Nếu tiếng đầu trong những cặp trên đây là Nôm, là thuần Việt còn tiếng sau là hình thức phiên âm thì không làm sao có được sự tương ứng nhất quán đến cao độ như đã thấy từ địa phương này sang địa phương khác, có khi cách nhau rất xa:
– Gạch ở gần Hà Nội cũng được phiên bằng Cách như Gạch ở Thái Bình mà lại không phiên bằng Kịch, chẳng hạn;
– Then ở gần Hà Nội cũng được phiên bằng Sơn như Then ở tận Phú Thọ mà lại không phiên bằng Thiên, chẳng hạn;
– Đặc biệt, Núc ở gần Hà Nội cũng được phiên bằng Nậu y hệt như Núc ở tận Vĩnh Phúc mà lại không phiên âm bằng Nục, chẳng hạn. Trường hợp này đáng được nói kỹ hơn một chút: Sự tương ứng Nậu ~Núc chỉ có thể được chứng thực bằng chính lịch sử ngữ âm và lịch sử văn tự của tiếng Hán mà thôi. Và điều này, khi đã được đặt vào bối cảnh chung của tiếng Hán thì sẽ hoàn toàn chẳng có gì là khác thường cả, vì về mối tương ứng âu ~ uc thì người ta còn có, chẳng hạn: – chữ  vừa đọc mậu vừa đọc mục; – chữ dục (không có trong font Hanosoft ) vừa hài đậu  vừa hài thục    ; – chữhữu (= có) hài thanh cho chữ úc  còn bản thân nó lại có âm xưa là dẫu trong “dẫu sao”, “dẫu rằng”, xưa hơn nữa là dầu trong “mặc dầu” (dầu = có → có sao đi chăng nữa thì cũng  hư từ hóa = mặc dù, dù sao); – chữ   cũng đọc câu, xét ngược lên lối triện, chỉ là một biến thể của chữ cục  ; v.v.. Và cuối cùng, chính B. Karlgren đã phục nguyên cho chữ  âm thượng cổ là *nug, đối lập với âm nay là nou (10).
Sự tương ứng nhất quán đến cao độ trên đây là một chỗ dựa chắc chắn để khẳng định rằng những cặp từ đang xét chỉ là âm xưa và âm nay của những chữ Hán hữu quan. Nếu là phiên âm thì, dù âm gốc có là một, từ địa phương này sang địa phương khác, kết quả phiên âm thế nào cũng có sai biệt, và có khi khác nhau rất xa. Cứ nhìn vào các hình thức phiên âm từ tiếng Sanskrit thì có thể thấy ngay vấn đề. Nhiều từ Sanskrit có đến hai hình thức phiên âm khác nhau bằng tiếng Hán, có khi ba, bốn,… Ngay một từ quen thuộc nhất và tôn nghiêm nhất của Phật giáo là Buddha thì cũng có ít nhất là ba: Phật Đà, Phật Đồ và Phù Đồ.
Đã rõ những yếu tố đang xét không phải là những tên Nôm. Hoàng Thị Châu còn biện luận rằng “sự tồn tại lâu đời của tên Nôm còn thể hiện ra ở chỗ nó là những từ khó hiểu, nhiều từ không tìm thấy trong từ vựng tiếng Việt hiện đại” (11). Ý kiến này hoàn toàn không thể đứng vững được vì tính khó hiểu đâu có phải là chỗ dựa để xác định “ngữ tịch”! Ngày nay những người không thông thạo tiếng Hán khó mà biết được vưu trong vưu vật, chẳng hạn, có nghĩa là gì. Nhiều trí thức, nhà văn, nhà báo vẫn gọi nhược điểm là “yếu điểm” vì không biết rằng yếu có nghĩa là quan trọng. Vậy chẳng lẽ đó không là những từ khó hiểu? Nhưng chẳng lẽ vì chúng khó hiểu mà khẳng định rằng chúng là Nôm? Mà lại còn là Nôm lâu đời! Sự vắng mặt của một từ trong từ vựng của tiếng Việt hiện đại cũng không thể là bằng chứng cho “ngữ tịch” Nôm của nó được. Xin đơn cử một thí dụ. Nhà nghiên cứu Hán Nôm nào cũng biết rằng cóc là một từ Việt gốc Hán có nghĩa là biết. Đây là một từ cổ không còn tìm thấy trong từ vựng của tiếng Việt hiện đại nữa. Vậy có lẽ nào nó ắt phải là Nôm?
Thực ra, sở dĩ những địa danh như Noi, Cót, Vòng, v.v.., khó hiểu thì chỉ vì chúng là dạng tắt của những địa danh hai tiếng, nghĩa là chúng đã bị tách khỏi cái cấu trúc song tiết hoàn chỉnh trong đó ý nghĩa của địa danh mới được bộc lộ đầy đủ. Đã thế, chúng lại còn là âm xưa của những chữ Hán mà âm nay đã khác đi ít hoặc nhiều (Noi ~ Nhuế; Cót ~ Quyết; Vòng ~ Vọng; v.v..) nên khó nhận diện đến nỗi nhà nghiên cứu cũng còn phải nhầm chúng là… Nôm!
Một cái tên như Gùn quả là khó hiểu nếu nó hoàn toàn đứng riêng ra một mình. Nhưng khi địa lý lịch sử cho phép gắn nó với tên đầy đủ và hiện đại là Siêu Quần, rồi những thao tác từ nguyên học lại cho phép khẳng định mối tương ứng gùn ~ quần  thì mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Thật vậy, bản thân chữquần là một trong 36 tự mẫu của Thiết vận mà giá trị ngữ âm cổ xưa đã được khẳng định là [g] dễ chuyển hóa với [γ]    của gùn trong tiếng Việt ngày nay, vậy bước đầu chúng ta đã có:
] ~ [k]         (1)
biết rằng q- ở trong quần chính là [k]. Ngoài ra, chúng ta lại còn biết thêm được rằng âm xưa của vận -uân là -un với các thí dụ: hun (khói) ~ huân 熏 (= xông khói); (đống) un ~ uân 熅 (= khói đặc bốc lên); (dây) thun ~ thuân 逡 (= rụt lại, lùi lại) v.v.. Vậy chúng ta còn có:
un ~ uân          (2).
Phối hợp (1) với (2) thì sẽ thấy rằng gùn ~ quần là hoàn toàn đúng quy luật. Quần là đám đông, bầy, đàn, bọn. Siêu  , mà âm xưa là xéo (trong “giày xéo”) có nghĩa là nhảy qua, vượt qua. Vậy Siêu Quầncó nghĩa là vượt lên trên đám đông, là xuất chúng. Đây vốn là tên của một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Địa danh này cũng đồng nghĩa với địa danhSiêu Loại, vốn là tên của một huyện thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Siêu Quần xưa hẳn phải được phát âm thành *Xéo Gùn và thường được gọi tắt thành Gùn. Vậy Gùn là một địa danh Việt gốc Hán chánh cống chứ không phải  là thuần Việt, là Nôm.
Các địa danh đơn tiết khác cũng có thể được truy nguyên và tầm nghĩa một cách chính xác như từ Gùntrên đây. Đìa là âm xưa của Trì trong Ngọc Trì có nghĩa là ao ngọc; vậy Đìa có nghĩa là ao. Núc là âm xưa của Nậu trong Canh Nậu có nghĩa là cày bừa; vậy Núc có nghĩa là bừa. Vài là âm xưa của Nhịtrong Ngọc Nhị có nghĩa là hoa tai ngọc; vậy vài là hoa tai. Noi là âm xưa của Nhuế trong Cổ Nhuế có nghĩa là khúc sông xưa (nay đã được bồi); vậy noi là khúc sông uốn quanh. Vườn là âm xưa của Viêntrong Cổ Nhuế Viên có nghĩa là vườn ở khúc sông xưa (hoặc vườn Cổ Nhuế); vậy vườn có nghĩa là… vườn. Vòng là âm xưa của Vọng trong Dịch Vọng có nghĩa là (nơi) mong chờ tin trạm; vậy vòng có nghĩa là mong, ngóng (và đây cũng là một điệp thức của “mong” trong “chờ mong” và của “mòng” trong “chốc mòng”). Mẩy là âm xưa của Mễ trong Mễ Trì có nghĩa là ao gạo; vậy mẩy có nghĩa là gạo. Hóc là âm xưa của Húc trong Minh Húc có nghĩa là sáng sủa, rực rỡ, vậy hóc có nghĩa là rực sáng v.v.. NếuGùn, Đìa, Núc, Vài, Noi, v.v.. không từng là những từ độc lập thì ít nhất chúng cũng là những hình vị gốc Hán có nghĩa minh xác và cụ thể. Đây là một điều chắc chắn. Vậy thật là vô căn cứ nếu không truy nguyên và tầm nghĩa cho khách quan và chính xác mà cứ theo định kiến để khẳng định rằng những địa danh thuộc loại trên đây là thuần Việt hoặc Việt cổ.
Đến đây, tưởng cũng nên nhân tiện xác định lại cho rõ ràng và rành mạch nội dung của hai khái niệm “tên Nôm” và “tên chữ”. Hoàng Thị Châu đã viết: “Tên Nôm hiện nay đang bị quên dần vì ít được dùng nhưng nó đã tồn tại rất lâu. Trước đây trong một thời gian dài nó tồn tại song song với tên Hán-Việt, với sự phân công khá rõ ràng: tên Nôm dùng để gọi, tên Hán-Việt dùng để viết. Do đó mà tên Hán-Việt còn được gọi là tên chữ” (12). Nhưng, như đã phân tích ở trên, cái gọi là tên Nôm cũng phải được ghi, được viết: Gùn viết là  , Đìa:  , Núc:  , Vài: , Noi:    , Vườn:    , Vòng:     , Mẩy:  , Hóc:  , v.v.. Còn cái gọi là tên chữ thì cũng dùng để… gọi. Vậy cả hai loại đều là những tên chữ. Chẳng qua, như đã phân tích, “tên Nôm” là âm xưa còn “tên chữ” là âm nay của cùng một chữ Hán mà thôi. Vậy sự phân biệt thành “tên Nôm” và “tên chữ” như Hoàng Thị Châu và nhiều người khác đã chủ trương chỉ là một sự phân biệt giả tạo.
Cứ như đã phân tích thì ý tưởng dựa vào những địa danh “Nôm” như trên, mà lại có cả yếu tố Kẻ đứng trước, để vẽ lại cương vực của nước Văn Lang thời các vua Hùng là một ảo tưởng: những cái tên đóchỉ là những địa danh của bọn cai trị Tàu đặt ra để phân cấp và quản lý đất nước của chúng ta về mặt hành chính, hoặc là những địa danh mà chính chính quyền phong kiến tự chủ của ta đặt ra bằng những yếu tố mà ta đã mượn của Tàu. Sự thể khó lòng mà khác hơn thế được.
Vậy có lẽ nào trong toàn bộ hệ địa danh Việt Nam lại không có những trường hợp dùng tiếng Hán để phiên âm tiếng bản địa? Chúng tôi tuyệt nhiên không cho là không có. Chỉ xin nhấn mạnh rằng đó là những trường hợp cần được phân tích một cách thực sự cẩn trọng vì thực ra yếu tố được phiên âm chưa hẳn đã là yếu tố Việt đích thực, vì đã nói đến địa danh phiên âm thì con đường diễn tiến lắm khi lại rất quanh co. Chẳng hạn, ai lại không biết rằng Móng Cái là một địa danh Việt Nam. Nhưng địa danh này không phải là tiếng Việt “gốc” vì nó chỉ là một hình thức phiên âm từ tiếng của người Quảng Đông là Moòng Cái mà họ ghi bằng hai chữ 芒街 , đọc theo âm Hán Việt hiện đại là Mang Nhai. Vậy hai chữMang Nhai chẳng có liên quan gì đến Móng Cái vì nó chỉ dùng để ghi âm hai tiếng Moòng Cái của phương ngữ Quảng Đông mà thôi. Cho nên nếu nói rằng hai chữ Hán trên đây dùng để phiên âm “tiếng Việt” Móng Cái là đã đem râu ông nọ cắm cằm bà kia tới hai lần! Đến như hai tiếng Cổ Loa mà lại là dùng để phiên âm tiếng Việt cổ Klủ như có người đã từng truyền giảng thì chúng tôi hoàn toàn không tin (13).
Tóm lại trong toàn bộ các địa danh Việt Nam liên quan đến địa bàn cư trú của người Việt thời xưa, chắc chắn có những trường hợp là những chữ Hán dùng để phiên âm tiếng bản địa nhưng cũng chắc chắn những trường hợp đó là thực sự ít ỏi. Tuyệt đại đa số thì lại là những địa danh song tiết đặt bằng chữ Hán. Trong số đó, có nhiều địa danh thực sự cổ xưa, thường được gọi tắt bằng một trong hai âm tiết hữu quan, âm tiết này lại được đọc theo âm Hán-Việt xưa, khó nhận diện, nên nhiều người, đặc biệt là các học giả và các nhà nghiên cứu, cứ ngỡ rằng chúng là thuần Việt, là Nôm!
(1) Hùng Vương dựng nước, t.1, Hà Nội, KHXH, 1970, tr.136-143.
(2) Bđd, tr.141.
(3) Hà Nội, KHXH, 1973, tr. 40-85.
(4) Xin xem: An Chi, Chuyện Đông chuyện Tây, Kiến thức ngày nay, số 229, tr.51-53.
(5) Làng xã ngoại thành Hà Nội, Hà Nội, 1985, tr.116, 74-75 và 276.
(6), (7) Làng xã ngoại thành Hà Nội, Hà Nội, 1985, tr.116, 74-75 và 276.
(8) Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Giáo dục, 1995, tr.176-177.
(9) Theo Đỗ Tất Lợi, “Cây mơ, cây mai dưới con mắt người làm công tác khoa học”, Nhân dân, số 10468, 22-3-1983.
(10) Grammata Serica Recensa, Stockholm, 1964, p.314, 1223e.
(11) Bđd, tr.140
(12) Bđd, tr.140
(13) Xin xem: Trần Quốc Vượng, “Từ việc nghiên cứu một số tên riêng trong các truyền thuyết nói về thời kỳ dựng nước”, Tạp chí Văn học, 2-1969, tr.72. Chỉ riêng một việc là ở vào thời xa xôi đó mà cái từ “Klủ” lại có thanh điệu 4 (?) cũng đủ để làm cho nhà ngữ âm học lịch sử chín chắn phải kinh ngạc!